ALEXANDRE DE RHODES VÀ CHỮ QUỐC NGỮ
(Bài phát biểu của GS Nguyễn Lý-Tưởng trong Đại Lễ Văn Hóa Tạ Ơn)
Kính thưa quý vị,
Trước hết, tôi xin cám ơn nhà truyền thông Quốc Nam và Ban Tổ Chức cho phép tôi
được phát biểu về đề tài "Alexandre de Rhodes và chữ Quốc Ngữ" trước quý vị
trong Hội Trường này, ngày hôm nay.
Đề tài của tôi trình bày có hai phần:
(1) Về cuộc đời hoạt động của Alexandre de Rhodes, người được xem là có công
trong việc hình thành chữ Quốc Ngữ mà chúng ta sử dụng ngày hôm nay
(2) Tiến trình hình thành chữ Quốc Ngữ theo mẫu tự la tinh...
Thời gian trinh bày trong vòng 15 phut nên nội dung chỉ giới hạn trong phạm vi
Alexandre de Rhodes và chữ Quốc Ngữ (thời khai sinh) chứ không nói rộng ra về
nhiều lãnh vực khác liên quan đến chữ quốc ngữ (trong phạm vi văn học cuối thế
kỷ 19 đầu thế kỷ 20)
Kính thưa quý vị,
Trước khi giới thiệu phần tài liệu có liên quan đến hai vấn đề nêu trên, chúng
tôi xin đặt câu hỏi: Chữ Quốc Ngữ là gì? Chúng ta hiểu "chữ Quốc Ngữ" như thế
nào?
Thi sĩ Tản Đà, được xem là thi bá vào những năm đầu thế kỷ 20, đã hô hào người
Việt Nam chúng ta phải học "Chữ Quốc Ngữ" và ông đã gọi Chữ Quốc Ngữ theo mẫu tự
la tinh mà ngày nay chúng ta đang sử dụng là "chữ nước ta" nghĩa là chữ của
người Việt Nam chúng ta để phân biệt với chữ Hán là chữ của người Tàu (người Hoa)
mà tổ tiên chúng ta hàng ngàn năm đã sử dụng. Tản Đà gọi chữ Quốc Ngữ hiện nay
là "chữ nước ta", là "chữ của người Việt Nam" và tất nhiên "chữ Hán" không phải
là chữ của người Việt Nam, đó là chữ của người Hoa, người phương Bắc, người Tàu,
mà ai cũng biết.
Vậy, trước khi có chữ Quốc Ngữ theo mẫu tự la tinh mà chúng ta đang sử dụng thì
tổ tiên chúng ta có một thứ chữ nào khác (không phải là chữ Hán) hay không?
Tôi xin trả lời dứt khoát là không có (hay nói cách khác là chúng ta chưa tìm ra
được bằng chứng chắc chắn đã có một thứ chữ nào khác ngoài chữ Hán được gọi là "chữ
nước ta"). Chữ Nôm xuất hiện thời nhà Trần là một thứ chữ được mượn từ chữ Hán,
một thứ chữ do nhiều chữ Hán ghép lại, rất rắc rối và chưa được thống nhất. Muốn
đọc được chữ Nôm thì phải học chữ Hán trước. Các triều đại Việt Nam đã dùng chữ
Hán là văn tự chính thức để dạy cho dân, để thi cử, để viết sách vở, ghi chép
lịch sử và văn tự có giá trị luật pháp (nghĩa là văn tự viết bằng chữ Hán mới có
giá trị luật pháp: ví dụ viết một giấy vay nợ, viết một giấy bán nhà cửa, đất
ruộng, bán trâu bò,v.v...đều phải viết bằng chữ Hán...Các công văn, giấy tờ,
thông báo,v.v. nói chung là giấy tờ hành chánh từ vua quan phổ biến cho dân hay
từ dân trình bày lên vua quan,v.v...đều viết bằng chữ Hán. Dân học chữ Hán, thi
cử bằng chữ Hán...Nhà nước tuyển chọn nhân tài ra làm việc trong bộ máy hành
chánh của quốc gia (xưa gọi là làm quan giúp dân, giúp nước) đều căn cứ theo
trình độ chữ Hán của người đó.
Ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) là một nhà Nho, học chữ Hán, viết văn,
làm thơ bằng chữ Hán, lều chõng đi thi, bài thi phải viết bằng chữ Hán...Khoa
thi cuối cùng tại Miền Bắc vào những thập niên đầu của thế kỷ 20 , ông không đậu
được cử nhân. Lúc đó phong trào học chữ quốc ngữ, nhà nước mở trường dạy chữ
Quốc Ngữ, ông học chữ Quốc Ngữ (theo mẫu tự la tinh), ông bắt đầu viết văn, làm
thơ bằng chữ Quốc Ngữ, (bút hiệu Tản Đà 1916) ông hô hào học chữ Quốc Ngữ. Người
chịu khó học, chỉ vài tuần là đọc được; đọc được thì viết được, chữ gì cũng viết
được, viết theo lối phiên âm, đồng âm mà khác nghĩa. Nhưng người Việt Nam chúng
ta đều hiểu được hết. Nó khác với chữ Hán mà ông Tản Đà đã bỏ ra cả chục năm mới
đọc được, viết được, hiểu được, vì mỗi chứ viết khác nhau, đồng âm mà dị nghĩa.
Công phu học chữ Hán đến ngoài 20 tuổi mà đi thi không đậu. Bây giờ, ông học chữ
Quốc Ngữ, thấy học quá nhanh, quá tiện lợi cho người Việt Nam chúng ta, nên ông
hô hào:
"Chữ Quốc Ngữ,
Chữ Nước ta
Con cái nhà
Đều phải học..."
Kính thưa quý vị,
Vừa rồi, tôi đã nói về ý nghĩa chữ Quốc Ngữ theo định nghĩa của Ông Tản Đà
Nguyễn Khắc Hiếu mà ai cũng đồng ý đó là chữ nước ta, chữ của người Việt Nam.
Vậy ai là người đã đặt ra chữ Quốc Ngữ mà chúng ta đang sử dụng hiện nay?
I. Cuộc đời hoạt động của Alexandre de Rhodes:
Nhiều người cho rằng chính Alexandre e Rhodes là người đặt ra chữ Quốc Ngữ Việt
Nam vì họ căn cứ vào hai tác phẩm đầu tiên xuất bản tại Roma vào năm 1651 tác
giả là Alexandre de Rhodes: đó là cuốn Từ Điển Việt-Bồ-La và cuốn Phép
Giảng Tám Ngày Cho Kẻ Muốn Chịu Phép Rửa Tội Mà Vào Đạo Thánh Đức Chúa Trời.
Xin nhắc lại, trước Alexandre de Rhodes, chưa có tác giả nào viết thành sách vở
bằng thứ tiếng Việt theo mẫu tự la tinh, do đó, người ta tin rằng Alexandre de
Rhodes chính là người đã sáng chế ra chữ Quốc Ngữ Việt Nam, cũng có người tin
rằng ông là người đầu tiên làm việc này. Trước khi đặt vấn đề có phải Alexandre
de Rhodes là người đầu tiên đặt ra chữ Quốc Ngữ hay không? Trước tiên, xin hãy
tìm hiểu về cuộc đời (hay cuộc đời hoạt động) của ông này...
Alexandre de Rhodes sinh tại Avignon năm 1591, Avigon là lãnh thổ thuộc Giáo
Hoàng, không phải là nước Pháp. Năm 1612, khoảng 20 tuổi, ông vào tu Dòng
Jesuiste (tức dòng tên Đức Chúa Giêsu, sách vở tiếng Việt thường gọi là Dòng Tên).
Năm 1619, từ Lisbonne ông lên đường đi đến xứ Đông Dương (Indochina), sau khi
ghé nơi này, nơi khác, ông đến trụ sở Dòng Tên tại Macao năm 1623 và năm 1624,
ông được sai đến xứ Đàng Trong (ở tại trụ sở Dòng Tên thuộc Hội An để học tiếng
Việt). Khoảng 1626, ông theo bề trên là Linh Mục Pêro Marquez ra truyền giáo ở
Đàng Ngoài, hoạt động được chừng 3,4 năm (1627-1630) thì bị chúa Trịnh trục xuất
phải trở về Macao. Ôn sống ở Macao được 10 năm (1630-1640) vừa hoạt động truyền
giáo, vừa nghiên cứu tiếng Việt. Sau đó, ông được gửi trở lại truyền giáo ở xứ
Đàng Trong hoạt động trong vòng 5 năm (1640-1645) thì bị chúa Nguyễn trục xuất.
Cuối năm 1645, ông lên tàu đi Âu Châu, đến Roma. Thời gian ở Roma, ông cho xuất
bản hai cuốn sách tiếng Việt vào năm 1651 như đã nói trên. Từ 1652-1654, ông
sống tại Pháp, sau đó ông theo đoàn truyền giáo đi Ba Tư, ngụ tại Ispahan và qua
đời vào năm 1660, hiện còn ngôi mộ của ông tại đây.
Xin lưu ý một điều này, Alexandre de Rhodes sinh tại Avignon là vùng nói tiếng
Pháp, nhưng chữ Quốc Ngữ thì lại sử dụng cách chuyển âm của tiếng Bồ Đào Nha,
cách đọc 24 chữ cái tiếng Việt bây giờ là cách đọc của tiếng Bồ, không phải
tiếng Pháp. Điều đó giúp cho chúng ta hiểu tiếng Việt (chữ Quốc Ngữ) là từ các
nhà truyền giáo Bồ Đào Nha. Alexandre de Rhodes vào tu tại Lisbonne là thủ đô
của nước Bồ Đào Nha và đi theo các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha vào Việt Nam
(Đàng Trong rồi Đàng Ngoài) vào những thập niên đầu của thế kỷ 17. Cuốn Từ Điển
đầu tiên của ông là "Việt-Bồ-La" không dính dáng gì đến tiếng Pháp. Lúc đó, các
nhà truyền giáo người Pháp chưa có mặt tại Việt Nam.
Trong sách "Les missionnaires portugais et les débuts de L'Eglise catholique au
Viêt-nam" (Các nhà truyền giao Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo Hội Công giáo
Việt Nam) do Tiến Sĩ Roland Jacques (một Linh Mục người Pháp sinh 1943 tại
Lorraine, Pháp) xuất bản năm 2004, được dịch ra tiếng Việt mà tôi được hân hạnh
là người giới thiệu sách này tại Trung Tâm Công Giáo VN giáo phận Orange...đã
cho biết các chi tiết về cuộc đời hoạt động của Alexandre de Rhodes, như tôi vừa
giới thiệu trên đây...Tác giả Roland Jacques đã cho biết khi mới đến Hội An năm
1624, Alexandre de Rhodes đã học tiếng Việt với một giáo sĩ tên là Di Pina,
người Bồ Đào Nha. Di Pina sinh 1585 đến Việt Nam 1617 ở Hội An và Quy Nhơn, bị
tai nạn chìm thuyền chết trên biển ngày 15-12-1625 khi mới 40 tuổi, là người rất
giỏi tiếng Việt...
Đặt vấn đề: Có phải Alexandre de Rhodes là người đầu tiên đặt ra chữ Quốc Ngữ
theo mẫu tự La-tinh hay không? Xin thưa: mặc dù ông là tác giả hai tác phẩm
tiếng Việt đầu tiên là cuốn Tự Điển...và cuốn sách "Phép Giảng Tám Ngày..."
nhưng việc hình thành chữ Quốc Ngữ không phải là công trình của một cá nhân ông
mà do nhiều người và đã trải qua một thời gian dài từ giữa thế kỷ 17 đến giữa
thế kỷ 19, khoảng 200 năm mới hoàn chỉnh như ngày hôm nay. Như chúng tôi đã nói
ở trên: Linh Mục Di Pina (1685-1625) là người đã dạy cho Alexandre de Rhodes học
tiếng Việt, tất nhiên chúng ta phải hiểu rộng ra rằng Di Pina cũng là người đã
tham gia vào việc đặt ra chữ quốc ngữ... Ngoài ra còn có nhiều người Việt Nam
khác vào thời đó đã cộng tác với các nhà truyền giáo người Bô Đào Nha, và
Alaxandre de Rhodes...
II. Tiến trình hình thành chữ Quốc Ngữ theo mẫu tự latinh.
Do nhu cầu truyền giáo, các giáo sĩ phải tìm cách phiên âm tiếng Việt theo mẫu
tự latinh để học tiếng Việt, để ghi chép tiếng Việt theo cách phiên âm của họ
chứ không thể học thuộc lòng chữ Hán hay chữ Nôm (vì khó nhớ)...Sau khi đã có
chữ Quốc ngữ tiếng Việt, họ in kinh sách bằng tiếng Việt (chữ Quốc Ngữ) và
truyền bá chữ này cho người Việt (các Linh Mục, các tu sĩ người Việt và giáo dân)
để học kinh, học giáo lý, thư từ liên lạc trong nội bộ người Công giáo với nhau.
Giữa thế kỷ 19, có một người Việt Nam tên Nguyễn Văn Bỉnh quê ở Thanh Hóa, linh
mục thuộc Dòng Tên, đã đến Roma yết kiến Đức Giáo Hoàng... Ông đã sống tại
Lisbonne nước Bồ Đào Nha và đã viết lại một quyển sách hồi ký kể lại các hoạt
động của ông từ khi còn ở Việt Nam cho đến khi qua làm việc tại Âu Châu. Ông
viết bằng tiếng Việt thế kỷ 19 (chưa được hoàn chỉnh như tiếng Việt bây giờ).
Khoảng 1965, Đại học Đà Lạt đã cho chụp hình và in lại sách này. Sau khi xứ Nam
kỳ bị Pháp chiếm và hoàn tất việc tổ chức cai trị (1868), Pháp cho dạy chữ Quốc
Ngữ tại các trường học và cho phát hành sách báo bằng tiếng Pháp và tiếng Việt.
Các nhà trí thức Tây học như Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Huỳnh Tịnh Của
(1834-1907),Trương Minh Ký (1855-1900).v.v. cho phát hành sách báo tiếng Việt,
cổ võ học chữ quốc ngữ... Các nhà thờ Công giáo lập nhà in, in sách kinh, sách
giáo lý, sách học tiếng Việt...Gia Định Báo (1865-1910) do Trương Vĩnh Ký phụ
trách được xem là lâu đời nhất (sau 1865...) Văn chương tiếng Việt, chữ quốc ngữ
thịnh hành trong Nam ảnh hưởng tới ngoài Bắc nhất là trong giới Công gíao. Sau
Trương Vĩnh Ký phải kể đến nhà văn Hổ Biểu Chánh (1885-1958), vào những năm đầu
thế kỷ 20 nổi tiếng về viết tiểu thuyết tiếng Việt tại Nam Kỳ. Năm 1915, sau khi
vua Việt Nam tuyên bố bãi bỏ các kỳ thi bằng chữ Hán và chủ trương dạy chữ quốc
ngữ trong các trường học tại miền Trung và miền Bắc, lúc đó phong trào viết văn
viết báo và truyền bá chữ quốc ngữ mới thịnh hành tại Hà Nội và các tỉnh Miền
Bắc. Các nhà Nho chủ trương duy tân lập ra Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) vào đầu
thế kỷ 20 và các nhà Tây học như Nguyễn Văn Vĩnh (Đông Dương Tạp Chí
1913-1919), Phạm Quỳnh (Nam Phong Tạp Chí 1917-1934) v.v. cho xuất bản các sách,
báo tiếng Việt ...lúc bấy giờ dân Bắc Kỳ, Trung Kỳ mới chịu bỏ chữ Hán qua học
chữ quốc ngữ...Khoảng 1930, nhóm Tự Lực Văn Đoàn (1930-1945) ra đời do Nhất Linh,
Hoàng Đạo, Khái Hưng,v.v...với lối văn gọn gàng, sáng sủa đã giúp cho tiếng Việt
thêm phong phú...So với xứ Nam Kỳ thì phong trào học chữ quốc ngữ tại Miền Bắc
và Miền Trung đã đi sau Miền Nam khoảng 50 năm. Sau năm 1945, phong trào học
tiếng Việt, phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ , phổ biến từ Nam chí Bắc.
Đặc biệt sau, 1954, tại miền Nam, báo chí, sách vở tiếng Việt phát triển rầm rộ...
Chỉ trong vòng một thế kỷ sử dụng chữ quốc ngữ mà người Việt Nam bây giờ đã có
một kho tàng văn học tiếng Việt gấp trăm, gấp ngàn lần sách vở viết bằng chữ Hán
của cả ngàn năm từ thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn để lại.
Sau 1975, tại hải ngoại cũng có phong trào học chữ quốc ngữ, bảo vệ tiếng Việt,
xuất bản sách báo tiếng Việt...đã tạo nên một nên văn học Việt Nam hải ngoại...
Từ giữa thế kỷ thứ 19 trở về trước, Việt Nam cũng như Triều Tiên, Nhật Bản đều
dùng chữ Hán để giao thiệp, ghi chép sử sách, học hành, thi cử,v.v...Từ năm
1868, khi Minh Trị Thiên Hoàng lên lãnh đạo nước Nhật, bắt đầu duy tân, cải cách
thì mới đặt ra tiếng Nhật để thay thế chữ Hán; nước Triều Tiên (hay Cao Ly) bây
giờ là Hàn quốc...cũng vào hậu bán thế kỷ 19 mới có chữ quốc ngữ của mình. Tại
nước Tàu (Trung Hoa) mãi đến sau cách mạng Tân Hợi 1911 mới sử dụng bạch thoại,
quan thoại hay tiếng phổ thông là tiếng nói của người Bắc Kinh và văn mới (tức
văn bạch thoại là ngôn ngữ của giới bình dân) thay thế cho cổ văn (Hán tự) là
văn chương của giới thượng lưu trí thức ...Chữ Hán vốn là chữ của người Hoa ở
Trung nguyên được Tần Thủy Hoàng sử dụng để thống nhất văn tự cho lục quốc sau
khi nhà Tần thống nhất Trung Hoa. Cho đến bây giờ, người Hoa mỗi vùng vẫn nói
tiếng khác nhau và đọc chữ Hán khác nhau, do đó, sau cách mạng Tân Hợi (1911)
thời Tôn Dật Tiên và Tưởng Giới Thạch ra lệnh dạy tiếng Bắc Kinh cho cả nước gọi
là tiếng phổ thông hay tiếng quan thoại. Người Việt Nam cũng học chữ Hán và cách
đọc chữ Hán của người Việt Nam khác với cách đọc hay nói của người Hoa. Do đó,
trong ngôn ngữ Việt Nam có nhiều chữ Hán (chúng ta thường gọi là tiếng Hán Việt
vì nó đã thành tiếng Việt như quốc gia, xã hội, gia đình, tổ quốc, dân tộc...là
tiếng Việt chúng ta nói thường ngày...) Học chữ Hán rất khó, chữ Nôm lại càng
khó hơn...nhưng học chữ quốc ngữ thì quá dễ, một vài tuần là đọc được, viết được...Thời
Mao Trạch Đông, đặt ra "đơn giản tự" phổ biến cho toàn nước Tàu...Đơn giản tự là
chữ Hán viết tắt, ít nét hơn, dễ học hơn chữ Hán...Nhưng người học đơn giản tự
rồi thì không đọc được cả triệu quyển sách văn chương, triết học, khoa học, lịch
sử của người xưa để lại (viết bằng chữ Hán). Tiếng phổ thông là tiếng nói của
người Hoa bây giờ khác với văn chữ Hán ngày xưa gọi là cổ văn. Trình độ tiểu học,
trung học không thể hiểu được cổ văn (văn chương chữ Hán xưa)...Do đó, tiếng Tàu,
chữ Tàu còn nhiều điều rắc rối. So với chữ quốc ngữ của Việt Nam chúng ta, ai
học cũng được, nói sao thì viết như vậy...Nhờ chữ quốc ngữ, chúng ta học qua
tiếng Anh, tiếng Pháp dễ dàng (vì cùng mẫu tự latinh). Nhờ chữ quốc ngữ mà dân
tộc Việt Nam chúng ta tiến bộ rất nhanh, từ Nam chí Bắc thông tin với nhau quá
dễ dàng chứ không rắc rối như các dân tộc Á Đông. Tại Á Châu, chỉ có người Việt
Nam chúng ta có chữ viết theo mẫu tự latinh, người Tàu, người Nhật, ngươi Hàn,
người Thái, Lào, Kampuchia, Indonesia...đều dùng chữ riêng của họ, rất khó đọc,
rất khó học.
Kết luận: Chúng ta cám ơn người đặt ra chữ Quốc Ngữ, chúng ta cám ơn các nhà
truyền giáo với các bệnh viện, trường học, trại mồ côi và những công tác bác ái,
từ thiện, rao truyền tình bác ái, huynh đệ trên đất nước chúng ta. Người Pháp
xâm lăng chúng ta, cai trị chúng ta... nhưng quân xâm lăng khác với các nhà
truyền giáo. Cùng đi trên một chuyến tàu đến nước ta, nhưng mỗi người một mục
đích khác nhau. Chúng ta không vì thù ghét quân xâm lăng, quân cướp nước mà thù
ghét luôn những nhà truyền giáo, những người đã tặng cho dân tộc chúng ta Chữ
Quốc Ngữ...
Bổ túc:
Huỳnh Tịnh Của (1834-1897) là tác giả cuốn Đại Nam Quốc Âm Tự Vị xuất bản tại
Saigon (1895-1896) và Giám Mục Taberd có xuất bản Tự Điển tên là Nam Việt -
Dương Hiệp Tự Vị (tiếng La Tinh dịch ra tiếng Việt viết bằng chữ Nôm và chữ Quốc
ngữ theo mẫu tự Latinh)... Giám Mục Jean Louis Taberd (1794-1840) làm Giám Mục
tại Saigon (Nam Việt) từ 1830-1840) sách này dựa trên tài liệu của Giám Mục
Pigneau de Behaine (thường gọi là Bá Đa Lộc) biên soạn từ 1773 để lại. Giám Mục
Jean Louis Taberd là người hoàn tất khi còn ở bên Ấn Độ... Sách này ra đời sau
Tự Điền Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes... Các nhà làm tự điển sau này (thế
kỷ 19, 20) đều tham khảo sách của Taberd.
NGUYỄN LÝ TƯỞNG (Westminster CA, Thứ 7 Ngày 7 Tháng 7 Năm 2018)
Tác giả:
GS Nguyễn Lý-Tưởng
|