Hỏi : xin cha cho biết cách thức người giáo dân thi hành ba chức năng tư tế,
ngôn sứ và vương đế trong Giáo Hội.
Trả lời:
Trong hoàn cảnh thế giới tục hóa, bất công, bạo động , vô luân và thiếu tình
người hiện nay ở khắp nơi, người tín hữu Chúa Kitô nói riêng - và Giáo Hội nói
chung - hơn bao giờ hết được mời gọi sống Tin Mừng Cứu Độ và làm nhân chứng cho Chúa
Kitô cách sống động và đích thực hơn nữa để đẩy lui bóng đen của tội lỗi và sự
dữ đang bao trùm thế giới, đe dọa đẩy xa con người ra khỏi niềm tin có Chúa là
Đấng trọn tốt trọn lành. Để đối phó vơi hiểm họa này, Giáo Hội đặc biết mời gọi
mọi thành phần dân Chúa phải tái phúc âm ( re-evangelization) để sống Tin Mừng
Cứu độ của Chúa Kitô .và làm nhân chứng cho Chúa cách thuyết phục hơn nữa.
Riêng đối với người giáo dân, tái phúc âm cũng có nghĩa là thêm ý thức về vai
trò của mình để sống nhân chứng cho Chúa Kitô cách tích cực hơn nữa qua ba
chiều kích ngôn sứ, tư tế và vương đế.
Ba hức năng trên phát xuất từ Phép rửa mà mọi người đã lãnh nhận khi gia nhập
Giáo Hội của Chúa Kitô, thiết lập trên nền tảng các Tông Đồ với sứ mệnh phải
ra đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân,
“
làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha
Chúa Con và Chúa Thánh Thần”,(
x Mt 28: 19) như Chúa đã truyền cho các Tông Đồ trước khi Người về trời, sau
khi hoàn tất sứ mệnh cứu chuộc nhân loại qua khổ hình thập giá.
Đây là một đặc ân cao quý và cũng là trách nhiệm của những ai đã gia nhập Giáo
Hội của Chúa Kitô qua Phép Rửa.Các giáo phụ ( Church Fathers) xa xưa đã dạy
rằng người tín hữu giáo dân là Đức Kitô thứ hai ( Alter Christus) nhờ Phép rửa
cho phép họ được tham dự vào các chức vụ kia của Chúa Kitô.
Danh xưng Đức Kitô thứ hai sau này cũng được dùng để chỉ các tư tế phẩm trật (
ordained Ministers) như linh mục và giám mục, là những người thực sự thay mặt và
nhân danh Chúa Kitô ( in persona Christi) khi cử hành các bí tích quan trọng như
Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải Xức dầu và Truyền Chức Thánh ( dành riêng cho
giám mục) Các Bí tích Rửa tội và Hôn phối thì phó tế có thể làm , kể cả giáo dân
trong trường hợp khẩn cấp, nguy tử. Hai người phối ngẫu có thể kết hôn thành sự
với sự chứng kiến của hai nhân chứng trong trường hợp nguy tử, không tìm được
linh mục hay phó tế chứng hôn.( x giáo luật số, 1116 &1)
Danh xưng giáo dân( laity= lay people) được dùng để chỉ những người không có
chức thánh ( giáo sĩ =clerics) hoặc tu sĩ có lời khấn Dòng ( consecrated life).
Họ chính là thành phần dân Chúa đông đảo nhất trong Giáo Hội và được tham dự
vào ba chức năng Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế của Chúa Kitô theo cách thức
riêng của họ.
Thánh Công Đồng Vaticanô II , trong Hiến Chế Tin Lý Lumen Gentium, đã phân
biệt chức linh mục thông thường của giáo dân.( the common priesthood of
the laity) khác với chức vụ linh mục biệt tác của hàng giáo sĩ thừa tác (
extraordinary ministerial Priesthood of the clerics) như sau:
Hàng giáo sĩ thừa tác thì hành chức năng tư tế khi cử hành các bí tích , cách
riêng bí tích Thánh Thể và Hòa giải nhân danh Chúa Kitô ( Personna Christi).
Nghĩa là chính Chúa Kitô cử hành các bí tích qua tay các thừa tác viên con người
là Phó tế, linh mục và giám mục.Vì thế, bí tích luôn thành sự ( validly) khi
thừa tác viên nhân danh Chúa và cử hành đúng nghi thức ( rites) mà Giáo hội đã
qui định.
Thí dụ, rửa tội phải có nước và đọc công thức Chúa Ba Ngôi. Nếu thiếu một trong
hai yếu tố này thì bí tích không thành sự, dù cho thừa tác viên là linh mục hay
giám mục.Cũng vậy, khi cử hành bí tích Thánh Thể trong khuôn khổ Thánh Lễ Tạ Ơn,
nếu thừa tác viên không dùng đúng chất thể là bánh không men và rượu nho đúng
theo qui đinh của Giáo Hội, hoặc không đọc đúng kinh Nguyện Tạ Ơn và lời truyền
phép ( consecration) theo
chữ đỏ
( rubric) thì bí tích sẽ không thành sự . Ngược lại, nếu không có chức linh mục
hữu hiệu hay thành sự, thì cho dù có đọc và làm đúng theo lễ qui vẫn không có
bí tích được , và người cử hành sẽ bị vạ tuyệt thông tiền kết , vì không có
chức linh mục mà dám cử hành Thánh Lễ hay giải tội cho ai.( x giáo luật số 1378
triệt 1 và 2).
Tiếp đến, hàng giáo sĩ thừa tác thi hành chức năng ngôn sứ của Chúa Kitô qua
việc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và giáo lý của Giáo Hội cho giáo dân ở khắp nơi
để giúp họ biết sống đức tin ,đức cậy và đức mến cách đích thực để được cứu rỗi
theo lòng mong muốn của Thiên Chúa, “
Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho
mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.”
( 1 Tm 2 :4)
Mặt khác, hàng giáo sĩ và tu sĩ cũng được mong đợi sống phù hợp với lời mình rao
giảng và dạy dỗ để làm chứng cho Chúa Kitô, “Đấng
đến để phục vụ và hiến mạng sống
mình làm giá chuộc cho muôn người.”
( Mt 20 28)
Đây là sứ mệnh mở mang Vương Quôc của Chúa Kitô, Vương Quốc của yêu thương, tha
thứ, công bình và thánh thiện trong lòng người ở khắp mọi nơi trên thế giới
Trên đây là cách thức hàng giáo sĩ tham dự và thi hành ba chức năng tư
tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô, với tư cách là tư tế thừa tác (
ministerial sacerdoce)
Người giáo dân, nhờ bí tích Rửa tội, cũng tham dự vào các chức năng trên nhưng
theo cách thức riêng của họ như sau:
Liên quan đến chức năng ngôn sứ, người giáo dân không rao giảng lời Chúa trong
nhà thờ, nhà nguyện như các linh mục, giám mục, mà rao giảng bằng chính đời sống
của mình trước mặt người đời chưa nhận biết Chúa để giúp họ nhân biết và tin
yêu Chúa nhờ gương sống đức tin của mình.
Nghĩa là, ở giữa những người không có niềm tin, hay có mà không dám sống niềm
tin ấy, nên họ ăn gian nói dối, cờ bạc , gian dâm, thay vợ đổi chồng, buôn bán
gian lận, thù ghét người khác, phá thai , ly dị… thì người có niềm tin Chúa phải
sống ngược lại với cách sống của những người vô đạo hay chối đạo kia để
“
họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm , mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự
trên Trời.”
( Mt 5 :16), như Chúa Giê su đã dạy các môn đệ xưa.
Đây chính là trách nhiệm “
phúc âm hóa môi trường sống”
của người tin hữu giáo dân, góp phần hứu hiệu với hàng giáo phẩm và giáo sĩ
trong sứ mệnh
“phúc
âm hóa thế giới”
để mở mang Nước Chúa trên trần thế. Chính nhờ gương sống chứng nhân của mình
mà người giáo dân sẽ thuyết phục được nhiều người khác nhận biết và tin yêu
Chúa . Vì thề, Công Đồng Vaticanô II đã dạy rằng:
“ …Giáo
dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động trong những
nơi và hoàn cảnh mà nếu không có họ, Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế
gian.”
( LG, số 33)
Nói khác đi, khi sống giữa những người khác tin ngưỡng hay vô tín ngưỡng, người
tín hữu công giáo làm chứng cho Chúa Kitô và rao giảng Tin Mừng của Chúa bằng
chính đời sống công bình, bác ái, vị tha, nhân hậu và trong sạch để đối
nghịch với lối sống vô luân, gian tham, xảo trá, gian manh, vô nhân đạo của
người đời. Nghĩa là. khi không hùa theo cách sống của họ và có can đảm sống theo
đường lối của Chúa từ trong gia đình ra đến ngoài cộng đồng xã hội để không
thay chồng đổi vợ, không ly dị, phá thai, không thù oán ai, không buôn bán gian
lận, không lui tới những nơi tội lỗi như sòng bài và nhà điếm…, thì người giáo
dân đã chu toàn chức vụ ngôn sứ của mình cách cách cụ thể và thuyết phục là
rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô cách hùng hồn bằng chính đời sống của mình
cho những người sống vô luân vô đạo ở khắp nơi trên thế giới tục hóa ngày nay.
Và đây mới chính là cách thi hành chức vụ ngôn sứ của người giáo dân trong Giáo
Hội để góp phần mở mang Nước Chúa bằng lời nói và việc làm của mình trước mặt
người đời chưa nhận biết Chúa.
Nói khác đi, nếu người tín hữu Chúa Kitô- giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân- mà cũng
ham mê tiền của, tôn thờ khoái lạc ( hedonism) chạy theo những lôi cuốn về danh
lợi và vui thú vô luân ,vô đạo với người đời thì sẽ trở thành phản chứng (
anti-witness) thay vì là nhân chứng ( witness) cho Chúa Kitô “
Đấng vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy
cái nghèo của mình mà làm cho anh em được trở nên giầu có.”
( 2 Cor 8: 9)
Mặt khác, khi người tín hữu Chúa Kitô - giáo sĩ ,tu sĩ và giáo dân- sống công
bình bác ái, trong sạch và vị tha, yêu thương, tha thứ từ trong gia đình ra
đến cộng đồng xã hội thì cũng mang Vương Quốc của Chúa là Vương Quốc yêu thương,
công bình, an vui và thánh thiện đến với những ai đang sống trong hận thù, bất
công, bóc lột người khác, vô luân vô đạo và dửng dưng trước sự nghèo đói của
biết bao anh chị em đồng loại sống quanh mình.
Sau hết, người tín hữu giáo dân thi hành chức năng tư tế của mình bằng cách dâng
đời sống cá nhân hay gia đình với mọi vui buồn , sướng, khổ, thành công hay
thất bại để hiệp thông với sự đau khổ của Chúa Kitô một lần dâng lên Chúa Cha
trên thập giá , để đền tội thay cho nhân loại, và còn tiếp tục dâng hy tế đền
tội này cách bí nhiệm trên bàn thờ ở khắp nơi trong Giáo Hội ngày nay.
Tóm lại, người tín hữu giáo dân được mời gọi thi hành các chức năng tư tế, ngôn
sứ và vương đế của mình theo cách thức đã trình bày trên đây, để thông hiệp cùng
với hàng giáo sĩ thừa tác tế lễ, rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho
những người chưa biết Chúa để mở mang Vương Quốc yêu thương, công bình và
thánh thiện của Chúa đến với mọi tâm hồn con người ở khắp mọi nơi, để đánh tan
bóng đen của tội lỗi, của văn hóa sự chết, của chủ nghĩa tục hóa ( vulgarism,
secularism) tôn thờ tiền bạc và mọi thú vui vô luân vô đạo, đang ngày một bành
trướng ở khắp nơi trên thế giới trống vắng niềm tin này.
Ước mong những giải thích trên đây thỏa mãn câu hỏi đặt ra.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.