Câu hỏi đặt ra không liên quan gì đến vấn đề chính trị, kinh tế, quân sự của
thế giới , mà chủ yếu là suy tư về vấn đề luân lý và đạo đức ( moral & ethics)
của thế giới hôm nay mà thôi
Thật vậy, những ai quan tâm đến luân lý , đạo đức thì phải ngao ngán trước thực
trạng suy đồi nghiêm trọng về cả hai mặt này của thế giới hôm nay, đặc biệt
là ở những quốc gia có truyền thống Kitô Giáo, như Ý , Đức, Pháp , Tây Ban Nha,
Ái Nhĩ Lan ( Ireland) Anh Quốc, Canada và Hoa Kỳ. Đây là những quốc gia có
đông người theo Kitô Giáo ( Công Giáo, Chính Thống, Tin Lành, Anh Giáo) nhưng
nay lại sống phản Kitô giáo ( anti-Christianity) cách rõ nét khi cho phép những
thực hành vô luân vô đạo như làm ngơ cho sách báo, phim ảnh khiêu dâm được tự
do lưu hành, cho li dị, phá thai và hôn nhân đồng tính ( same sex marriage)
Đây là một thực trạng đáng buồn, đáng xấu hổ cho những ai thành tâm muốn sống
cốt lõi của niềm tin Kitô Giáo và hãnh diện là tín hữu Kitô.(Christians)
Sở dĩ thế, vì con người khác thú vật nhờ có đời sống tâm linh, có ý thức luân
lý ,đạo đức, khác biệt với loài vật chỉ có bản năng và hoàn toàn vô tri.Và đó
là lý do tại sao vấn đề luân lý, vấn đề thưởng phạt chỉ đặt ra riêng cho con
người mà thôi.
Nhìn vào thực trạng của thế giới hôm nay, người ta phải đau buồn vì các quốc
gia có truyền thống Kitô Giáo nói trên đang tiến nhanh, tiến mạnh trên đường
suy thoái đạo đức và luân lý, khi họ làm ngơ –hay tệ hại hơn nữa- là cho phép
những thực hành mà tự bản chất là phi luân, vô đạo, như cho phép kỹ nghệ dâm ô
( pornography) tự do tung hoành, gây tác hại tinh thần cho giới trẻ và người
lớn, cho phá thai, li dị , và nay là hôn nhân đồng tinh, (same sex
marriage) như một thách đố có tác dụng phá đổ nền tảng gia đình dựa trên hôn
nhân giữa một người nam và một người nữ.
Gia đình -từ ngàn xưa- là nên tảng của mọi xã hội con người, là hy vọng của mọi
dân tộc, - và cách riêng- là tương lai của Giáo Hội. Gia đình chỉ có ý nghĩa
trọn vẹn khi có người làm cha, làm mẹ, làm chồng làm vợ. Con cải phải có cha có
mẹ thì mới thực sự cảm nhận mình là con cái.
Vậy mà nền tảng gia đinh dựa trên những tương giao căn bản cần thiết nói trên
đang bị các xã hội bệnh hoạn trên đây phá đổ, khi họ cho định nghĩa lại ý
nghĩa và mục đích của hôn nhân để cho phép hôn nhân đồng tính.
Điều này, trước hết, hoàn toàn đi ngược lại mục đích của Thiên Chúa khi tạo
dựng con người có nam có nữ và truyền cho họ mệnh lệnh
“
phải sinh sôi nẩy nở cho thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất.”
( St 1: 28).
Đây là nên tảng luân lý, đạo đức và là mục đích của hôn nhân giữa một người nam
và một người nữ từ khi có con người trên mặt đát này.
Vậy mà nay các xã hội bệnh hoạn nói trên cho phép hai người nam hay hai người
nữ kết hôn, và gọi đó là hôn nhân như hôn nhân của một người nam và một người nữ
từ xưa đến nay, thì làm sao chu toàn được mục đích nói trên của hôn nhân theo ý
muốn của Thiên Chúa; nếu các quốc gia có truyền thông Kito Giáo nói trên còn
tin có Thiên Chúa là Đấng tối cao, đã tạo dựng muôn loài muôn vật hữu hình và
vô hình ?
Nếu tin có Thiên Chúa thì phải thi hành những gì Ngài mong muốn cho con người
sống và làm để được chúc phúc ngay từ ở đời này trước khi được cứu độ để vào
Nước Trời vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu mai sau.
Do đó, cho muc đích sống theo đường lối của Thiên Chúa, con người phải sống một
đời sống luân lý và đạo đức, để phân biệt mình với những kẻ vô thần ( atheists),
không tin có Thiên Chúa và luân lý phổ quát ( universal moral).
Liên can đến vấn đề hôn nhân đồng tính, nếu cha mẹ của những người đang tán
thành hôn nhân đồng tính, cũng là những người đồng tính, thì làm sao sinh ra
được họ, để giờ đây họ nhắm mắt bịt tai công nhận hôn nhân giữa hai người đồng
tính ? cha mẹ của họ phải là một người nam và một người nữ kết hôn đúng nghĩa
với nhau thì mới sinh ra họ, và xã hội con người ở khắp nơi mới tồn tại cho đến
ngày nay.
Nay vì muốn chiều theo ý muốn ngang trái của một thiểu số người sinh ra với
khuynh hướng bất thường về phái tính ( abnormally sexual tendency), người ta đã
tán thành và cho phép hôn nhân đồng tính như một định chế tương đương với hôn
nhân truyền thống giữa một người nam và một người nữ, như thực trạng của xã hội
loài người từ xưa đến nay.
Chúng ta không lên án những người sinh ra với khuynh hướng khác thường nói trên.
Nhưng chúng ta không thể công nhận việc công khai sống chung của họ là hôn
nhân, như đại đa số những người bình thường khác , đã kết hôn cho mục đích duy
trì nòi giống, và chu toàn trách nhiệm của hôn nhân theo ý muốn của Thiên Chúa,
là Đấng đã tạo dựng con người có nam có nữ và đã se kết họ trong giao ước hôn
nhân để công tác với Chúa trong chương trình sáng tạo nhằm có đông con người
sinh ra trong trần thế này.
Chúa Kitô , khi xuống trần gian làm Con Người, cũng đã chọn sinh ra trong một
gia đình có mẹ thật là Đức Trinh Nữ Maria, thụ thai nhờ quyền năng của Chúa
Thánh Thần, và có cha nuôi là Thánh Cả Giuse. Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse
chắc chắn là những người bình thường về mọi mặt như mọi con người khác. Hai
ông bà kết hôn vì phong tục tập quán của xã hội Do Thái và cũng vì thánh ý nhiệm
mầu của Thiên Chúa chọn cho Con Một của mình là Chúa Giê su- Kitô sinh r a bởi
Đức Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng trước mặt người
đời, Mẹ Maria không thể có con mà không có chồng. Vì thế, Thánh Giuse đã được
chọn để đóng vai người chồng của Mẹ Maria trước mặt người đời. Nhưng trước mặt
Thiên Chúa, hai ông bà đều là những người yêu mến đức đồng trinh và muốn tôn
vinh Thiên Chúa với đời sống khiết tịnh vẹn toàn của mình.
Thánh gia thất Chúa Giê su, Mẹ Maria và Thánh Giuse là khuôn mẫu cho mọi gia
đình nhân loại. Gương mẫu cho mọi con cái , cho những người làm cha ,làm chồng,
làm vợ và làm mẹ .Đây là thánh ý của Thiên Chúa cho những ai được ơn gọi sống
bậc hôn nhân để làm cha, làm chồng, làm vợ và làm mẹ để nuôi dạy con cái là kết
quả và là muc đích của hôn nhân thánh thiện theo kế hoạch của Thiên Chúa, được
Chúa Giê su nâng lên hàng bí tích với lời dạy sau đây:
Để trả lời những người Biệt phái đến hỏi Chúa Giê su xem người ta có được phép
li dị không ,
Chúa đáp:
Các ông không đọc thấy điều này sao ? “Thuở
ban đầu, Đấng tạo hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán : vì
thế người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương
một thịt . Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự
gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân li.”
( Mt 19: 4-6)
Trên đây là giáo huấn của Chúa Giê su mà Giáo Hội có bổn phận truyền dạy cho con
cái mình tôn trọng và thi hành để được cứu rỗi.Giáo huấn này không ai được phép
cắt nghĩa cách khác và thay đổi vì bất cứ lý do nào.
Mới đây, trong dịp tiếp kiến các Giám mục của Công Hòa Đô-mi-nícan ngày 28
tháng 5 vừa qua , Đức Thánh Cha Phanxi cô đã nói với các giám mục như sau:
“
Chúng ta hãy tiếp tục phô bày vẻ đẹp của hôn nhân Kitô giáo : kết hôn trong Chúa
là một hành động của đức tin và đức ái: qua đó người phối nhẫu với tự do ưng
thuận, trở thành phương tiện chuyên chở phép lành và ơn phúc của Thiên Chúa cho
Giáo Hội và xã hội.”
( Let us continue to present the beauty of Christian matrimony : to marry in
the Lord is an act of faith and love, in which the spouses- through their free
consent , become a means of passing on the blessing and grace of God for the
Church and society. ( L ‘Osservatore Romano , number 23, Friday , June 5, 2015)
Như thế, hôn nhân Kitô giáo không thể là hôn nhân giữa hai người nam hay hai
người nữ có khuynh hướng đồng tính được, mà phải là hôn nhân giữa một người nam
và một người nữ, theo ý muốn của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng con người có nam có
nữ; và cũng là truyền thống đã có từ bao thế hệ qua trong mọi nền văn hóa,
phong hóa của mọi dân tộc trên thế giới từ xưa đến nay.
Đây là vấn đề có liên quan mật thiết đến luân lý và đạo đức, là nền tảng của đời
sống con người, chứ không phải là vấn đề tôn trọng quyền sống của cá nhân ai
như người ta đang nại ra để cho phép hôn nhân đồng tính.
Đó là vấn đề luân lý, đạo đức, vì luân lý phổ quát dạy mọi người là phái tính (
sexuality) chỉ tự nhiên giữa một người nam và một người nữ tự do kết hôn với
nhau theo truyền thống và phong hóa của mọi dân tộc.
Dó đó, hai người nam hay hai người nữ mà có liên hệ phái tính với nhau thì đây
là điều trái tự nhiên ( unnatural) và vô luân ( immoral)
Tác giả Sách Lê vi đã lên án sự phối hợp phái tính trái tự nhiên nói trên như
sau:
“
khi người đàn ông nào nằm với một người đàn ông như nằm với đàn bà, thì cả hai
đã làm điều ghê tởm…”
( Lê vi 20: 13)
Như vậy, công nhận cho hai người đàn ông hay hai đàn bà kết hôn có nghĩa công
nhận sự vô luân về phái tính; hay nói khác đi, công nhận sự chung đụng xác thit
giữa hai người nam hay hai người nữ là điều cũng tự nhiên như sự chung đụng
của một người nam và một người nữ kết hôn trong mọi gia đình nhân loại từ xưa
đến nay ?
Nếu thế thì những việc vô luân khác như thủ dâm ( masturbation) loạn dâm =loạn
luân ( incest) ấu dâm ( child prostitution) và thú dâm (sodomy), thông dâm (
fornification) ngoại tình ( adultery)… đều không còn là những hành vi vô luân
nữa, vì chúng đều xuát phát từ những khuynh hướng hay ước muốn vô trật tự và vô
luân ( inordinate, immoral)) của con người !, tương tự như huynh hướng đồng
tính bất thường mà người ta đang cho phép người có khuynh hướng này kết hôn,
tức là công nhận việc ăn nằm của họ là không có gì ngăn trở về luân lý !!!
Đây rõ rệt là một suy thoái nghiêm trọng về luân lý hôn nhân, và luân lý phổ
quát ( universal moral) của các xã hội bệnh hoạn nói trên. Chắc chắn Giáo Hội
sẽ không bao giờ cho phép hay công nhận loại hôn nhân đồng tính này , vì nó
vừa sai trái nặng về mặt luân lý – và nghiêm trọng hơn nữa- là đi ngược lại với
ý muốn của Thiên Chúa về ý nghĩa và mục đích của bí tích hôn phối mà Giaó Hội
có bổn phận bảo vệ và thi hành không chút nhân nhượng.
Giáo Hội không lên án những người có khuynh hướng đồng tính, nhưng không thể cho
phép họ sống chung như vợ chồng được, vì việc sống chung này là điều trái tự
nhiên và vô luân. Do đó, những ai đang sống trong tình trạng này thì không được
đến với hai bí tích hòa giải và Thánh Thể, mặc dù họ vẫn có thể đến nhà thờ để
cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ cùng với các giáo dân khác.
Sau hết, một điểm thắc mắc không thể bỏ qua là những đứa trẻ được các cặp hôn
nhân đồng tình này nhận làm con nuôi, thì chúng sẽ nghĩ gì về việc chúng chỉ có
hai bà mẹ hay hai người cha trong gia đình? Và gương xấu này sẽ tác hại ra sao
khi các trẻ đó lớn lên với hai người cha hay hai người mẹ??? Nếu chúng cũng là
những đứa trẻ sinh ra với khuynh hường tính dục khác thường như người nuôi dạy
chúng, thì không nói làm chi. Những nếu chúng- mà đa số chắc chắn như vậy- là
những trẻ sinh ra với mọi khuynh hướng bình thường, thì việc sống chung với
những người bất bình thường kia sẽ là một tai hại lớn cho chúng về mặt tình
thần, tình cảm và luân lý. Như thế, những kẻ cho phép hôn nhân đồng tính sẽ phải
chịu trách nhiệm hoàn toàn về những tai hại tinh thần, tình cảm và ý thức luân
lý của các trẻ được nuôi dạy trong môi trường đồng tính.
Vây những kẻ đang nhắm mắt công nhân hôn nhân đồng tình sẽ trả lời thế nào về
nan đề nói trên, liên quan đến các trẻ em được các người đồng tính nhận nuôi
dạy trong các gia đình bất bình thường của họ ?
Tóm lại, định nghĩa lại hôn nhân để công nhận hôn nhân giữa hai người nam hay
hai người nữ là một suy thoái nặng nề về luân lý và đạo đức cần phải quan tâm
và lên tiếng trước thực trạng đáng buồn của thế giới tục hóa hiện nay.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn