NHỮNG NGƯỜI Ở BÊN NGOÀI GIÁO HỘI CÔNG GIÁO CÓ ĐƯỢC CỨU RỖI KHÔNG ?
Hỏi : xin cha cho biết
các tín hữu của các tôn giáo bên ngoài Giáo Hội Công Giáo có được cứu rỗi không ?
Trả lời :
Thiên
Chúa là tình yêu, là “ Đấng cứu độ
chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” ( 1 Tm 2 : 4)
Đó
là chân lý mà Thánh Phaolô Tông Đồ đã dạy không sai lầm từ trên 2000 năm
qua.Thiên Chúa muốn cho mọi người không phân biết mầu da, ngôn ngữ và văn
hóa được cứu độ nên đã sai Con Một Người
là Chúa Kitoo đến trần gian để cứu chuộc cho con người khỏi chết đời đời vì tội.Công
nghiệp cứu chuộc này thật vô giá và vô
cùng cần thiết cho mọi người được cứu rỗi để vui hưởng hạnh phúc đời đời với
Chúa trên Nước Trời mai sau.
Cho
nên, muốn được cứu rỗi thì nhất thiết phải tin Chúa Kitô và cậy nhờ công nghiệp
cực trọng của Chúa để được cứu độ, Nói
rõ hơn, nếu Chúa Kitô không vâng phục
Chúa Cha mà xuống trần gian làm Con Người, và “
hy sinh mạng
sống mình
làm giá chuộc cho muôn người” ( Mt 20:28) thì tuyệt dối không ai có thể làm được gì để xứng đáng được cứu rỗi, vì “ ngoài Người ( Chúa Kitô) ra, không ai đem lại ơn cứu độ;
vì dưới gần trời này , không có một danh
nào khác đã được ban cho nhân loại để
chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” ( Cv 4: 12)
Như
thế có nghĩa là tất cả loài người – kể cả Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse cao trọng
trong vai trò là Mẹ thật và là Cha nuôi Chúa Kitô, cũng các Thánh Tổ Tông,
các Ngôn, các Tông Đồ… đều phải nhận công nghiệp cứu chuôc của Chúa Kitô để vào
Nước Trời vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa là Cha và cũng là Đấng cứu
độ chúng ta nhờ Chúa Kitô.
Sở
dĩ Danh Thánh và công nghiệp của Chúa Kitô cực kỳ quan trọng như vậy, vì
“ chỉ
có một Thiên Chúa
Chỉ có một Đấng trung gian
Giữa Thiên Chúa và loài
người
Đó là một con người, Đức Kitô- Giêsu
Đấng đã tự hiến mình làm giá chuộc cho mọi
người.” ( 1Tm 2: 5-6)
Nghĩa
là bất cứ ai được cứu độ từ trước đến
nay và còn mài về sau cho đến ngày hết thời gian, thì đều phải nhờ công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa
Kitô, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người.
Từ
chân lý này, Giáo Hội dạy chúng ta phải gia nhập Giáo Hội qua Phép Rửa để được
cứu rỗi nhờ công nghiệp của Chúa Kitô. Phải được rửa tội , tức là được tái sinh
trong sự sống mới được mua bằng giá máu Chúa Kitô một lần đổ ra trên thập giá năm xưa để cho “ai tin và chịu
phép rửa thì được cứu độ, ai không tin sẽ bị luận phạt.” ( Mc 16: 16),
như Chúa đã nói với các môn đệ trước khi Người về Trời, sau khi hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại qua khổ
hình thập giá, chết, sống lại và lên Trời.
Chúa
đã thiết lập Giáo Hội của Người trên nền tảng các Tông Đồ như phương tiện cần
thiết để chuyên chở ơn cứu độ của Người đến hết mọi người trên trần gian cho đến
ngày cánh chung – tức là ngày tận thế. Giáo Hội này “ tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo
do Đấng kế vị Phêrô và các giám mục hiệp thông với ngài điều khiển..” ( LG. số 8).
Vì
thế “ những ai biết rằng Giáo Hội
Công Giáo , được Thiên Chúa thiết lập nhờ Chúa Kitô, như phương tiện cứu rỗi cần
thiết mà vẫn không muốn gia nhập hoặc không muốn kiên trì sống trong Giáo Hội
này thì sẽ không thể được cứu rỗi.”
( LG. số 14)
Nói
khác đi, những ai biết Giáo Hội Công
Giáo là phương tiện cứu rỗi cần thiết mà vẫn không muốn gia nhập, hoặc đã gia
nhập qua Phép Rửa mà lại không kiên trì sống đức tin, đức cậy, đức mến trong
Giáo Hội này thì cũng sẽ không được cứu rỗi như Giáo Hội dạy trên
đây.
Dầu
vậy, đối với những người không vì lỗi của họ mà không được biết Chúa Kitô cũng
như không được rửa tội vì không ai giúp
họ về việc quan trọng này, Giáo Hội cũng dạy là nếu họ sống ngay lành và làm mọi việc theo sự
hướng dẫn lành mạnh của lương tâm, thì họ
vẫn có thể được cứu rỗi nhờ Danh Chúa Kitô và công nghiệp cứu chuộc của Chúa.(
x SGLGHCG số 847; LG số 16)
Ngược
lại, những người đã được biết Chúa qua đức tin và đã gia nhập Giáo Hội qua Phép Rửa, nhưng nếu họ không sống
đức tin ấy và không thi hành những cam kết khi được rửa tội để làm những sự dữ
như giết người, hận thù, trộm cắp , bóc lột, bất công bạo tàn, dâm ô thác loạn, buôn bán phụ nữ và bắt cóc trẻ nữ để bán cho bọn bất lương hành nghề
mãi dâm và ấu dâm rất khốn nạn …thì làm sao có thể được cứu rỗi, nếu chúng cứ
tiệp tục con đường tội lỗi mà không kíp ăn năn , sám hối để xin Chúa thứ tha ?
.
Trong
trường hợp này, dù có ai trong bọn người
này đã được rửa tội thì phép Rửa cũng hoàn toàn vô ích cho họ mà thôi.
Riêng
đối với các tín hữu của các tôn giáo bên
ngoài Giáo Hội Công Giáo, chúng ta cần phân biệt hai trường hợp sau đây :
Trước
hết là các Tôn giáo có liên hệ ít nhiều
về nguồn gốc với Công Giáo
như các Giáo Hội Chinh Thống Đông Phương
( Eastern Orthodox Churches ) các nhánh
Tin Lành ( protestanism) Anh Giáo ( Anglican Communon) và Do Thái Giáo ( Judaism) tức là những giáo phái không đang hiệp thông trọn
vẹn với Giáo Hội Công Giáo, vì có những bất đồng về tín lý, Kinh
Thánh , Phụng Vụ và nhất là về vai trò Đại Diện ( Vicar) Chúa Kitô của Đức
Giáo Hoàng La mã. Đối với các Giáo Hội
chưa hiệp thông này, Giáo Hội Công Giáo đã tha thiết mời gọi sự hiệp nhất Kitô Giáo qua nỗ lực đai
kết ( Ecumenism) đã theo đuổi từ nhiều
thập niên qua, nhưng cho đến nay, mới chỉ đạt được việc bỏ vạ tuyệt thông giữa
hai Giáo Hội Công Giáo và Chính Thông
Đông phương sau cuộc hội ngộ lịch sử giữa Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Hy Lap Anathegoras I năm
1966.Vạ tuyệt thông ( Anathema) này đã xảy ra từ năm 1054 giữa hai Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và
Giáo Hội Công Giáo La mã vì những bất đồng không thể hàn gắn được giữa hai Giáo Hội anh em này. Gần đây có thêm một số khá đông giáo sĩ và
giáo dân Anh giáo xin gia nhập Công Giáo và đã được hoan hỉ đón nhận. Ngoài ra chưa có tiến bộ nào trong việc hiệp nhất giữa Công Giáo và các nhánh Tin
Lành, và Do Thái giáo , mặc dù Tòa Thánh vẫn có những liên hệ mật thiết với các giáo phái này và vẫn luôn
hướng về các anh em còn ở bên ngoài Công
Giáo này để cầu xin cho sự hiệp nhất được
sớm thực hiện với thiện chỉ của các bên liên hệ. Riêng
các tín hữu của các Giáo hội chưa hiệp nhất này, Giáo Hội Công Giáo không hoài
nghi ơn cứu rỗi dành cho họ, vì tin rằng, nếu họ sống đúng với niềm tin của họ vào Chúa Cứu
Thế Giêsu để thành tâm yêu mến và thi
hành ý muốn của Thiên Chúa, thì họ vẫn
được hưởng nhờ ơn cứu chuộc của Chúa
Kitô. Đối
với các Tôn giáo ngoài Kitô Giáo khác như Hồi Giáo,( Islam) Ấn Giáo ( Hinduism) Phật Giáo ( Buddhism) , Khổng Giáo ( Confucianism) Thần
Đạo ( Shinto) ( của người Nhật) , v.v, tuy họ ở bên ngoài Công Giáo, nhưng Giáo Hội không hề dạy là họ sẽ không được cứu
rỗi. Xa xưa trong thời sơ khai của Giáo hội, đã có giáo phụ dạy là không có ơn
cứu độ ngoài Giáo Hội ( no salvation outside the Church). Nhưng
lời dạy trên không trở thành giáo lý vững chắc còn tồn tại trong Giáo Hội cho đến ngày hôm nay. Ngược
lại, Giáo Hội , qua Công Đồng Vaticanô II với tuyên ngôn Nostra Aetate về mối liên lạc giữa Giáo Hôi và các Tôn giáo
ngoài Kitô Giáo, đã minh xác như sau: “ Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện
nơi các tôn giáo đó.Với lòng kính trọng chân thành.Giáo Hội xét thấy những
phương thức hành động và lối sống , những
huấn giáo và giáo thuyết kia tuy rằng có
nhiều điểm khác với chủ trương mà Giáo hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại
ánh sáng của chân lý.Chân lý chiếu soi cho hết mọi người…vì thế, Giáo Hội khuyến
khích con cái mình nhìn nhận , duy trì và cổ động cho những thiện ích thiêng
liêng cũng như luân lý và những giá trị xã hội và văn hóa của các tín đồ thuộc
các tôn giáo khác bằng con đường đối thoại và hợp tác cách thân trọng và bác ái
đối với tín đồ tín đồ các tôn giáo ấy mà vẫn là chứng tá của đức tin và đời sống
Ki tô giáo.” ( Nostra Aetate số
2) Như
thế có nghĩa là Giáo Hội Công Giáo không phán đoán tiêu cực về bất cứ tôn giáo
nào bên ngoài Giáo Hội và còn kêu gọi người Công Giáo nên có thái độ thân thiện với các tín đồ
các tôn giáo khác, trong khi vẫn trung thành với đức tin Kitô giáo và sống vai trò nhân chứng ( witnessing) của mình trước mặt người đời để mời gọi họ tin
Chúa Kitô và gia nhập Giáo Hội của Chúa để được hưởng công nghiệp cứu chuộc của
Người. Nói
rõ hơn, Giáo Hội không lên án ai chưa hiệp thông với mình trong đức tin và thờ lậy một Thiên Chúa với Ba ngôi vị
khác nhau nhưng cùng một bản thể là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Giáo
Hội chỉ cầu nguyện và cố gắng xích lại gần
với mọi tôn giáo có hay không có nguồn gốc Kitô giáo. Liên
can đến vấn đề cứu rỗi , Giáo hội chỉ dạy con cái mình phải làm gì để được cứu
độ cũng như phải xa tránh những gì có thể
làm mất hy vọng cứu độ mà thôi. Còn
đối với những người chưa biết Chúa Kiô, kể cả những người vô thần ( Atheists),
Giáo Hội phó thác họ cho Chúa là Đấng chí công, nhân từ và giầu lòng thương xót,
để tùy Người phán đoán và hướng dẫn họ
trên đường tìm chân lý và tôn thờ Đấng đáng
phải tin. Chính trong chiều kích này mà biết đâu họ cũng sẽ gặp được Thiên Chúa là Thượng Đế mà họ đang kiếm tìm. Vì
thế, chúng ta phải cầu xin cách riêng
cho những anh chị em chưa biết Chúa để
xin cho họ được mau nhận biết và tin Chúa là Đấng tạo dựng và cứu độ
duy nhất của loài người, được Chúa yêu
thương đến nỗi đã hy sinh Con của mình là Chúa Kitô, “ Đấng đã hiến mạng sống mình làm giá chuộc
cho muôn
người,”( Mt 20:28) Tóm
lại,Thiên Chúa là tình thương. Người mong muốn cho mọi người được cứu độ để sống
hạnh phúc Thiên Đàng với Người trên Nước Trời mai sau. Là
người may mắn có niềm tin Chúa và đang sống đức tin trong Giáo Hội, mọi người
tín hữu chúng ta đều được mong đợi quan tâm đến phần rỗi của người khác, cách
riêng những người chưa nhận biết Chúa để cầu xin cho họ được đức tin như mình để cùng được cứu độ như lòng Chúa
mong muốn. Ước
mong giải thích trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra. Lm
Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Tác giả:
Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
|