TÔNG THƯ CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ GỬI TẤT CẢ CÁC NGƯỜI TẬN HIẾN NHÂN DỊP NĂM ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
Nguồn:
http://daminhvn.net/doi-song-thanh-hien/tong-thu-cua-duc-thanh-cha-phanxico-gui-tat-ca-cac-nguoi-tan-hien-nhan-dip-nam-doi-song-thanh-hien-1-9425.html
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP chuyển ngữ
Các
người nam nữ tận hiến thân mến,
Tôi viết cho anh chị em với tư cách là
Người Kế vị thánh Phêrô, đã được Chúa
Giêsu uỷ thác nhiệm vụ củng cố anh em
trong đức tin (x.Lc 22,32), và tôi cũng
viết cho anh chị em như một người tận
hiến giống như anh chị em.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa Cha, Đấng đã kêu
gọi chúng ta đi theo Đức Giêsu trong
việc gắn bó trọn vẹn với Tin mừng và
trong việc phục vụ Giáo hội, Đấng đã đổ
xuống tâm hồn chúng ta Thánh Linh mang
lại niềm vui và biến chúng ta thành
những chứng nhân cho tình yêu và lòng
thương xót của Chúa trước mặt thế giới.
Đáp lại ước nguyện của nhiều anh chị em
và của Bộ Đời sống thánh hiến và các Tu
đoàn tông đồ, nhân dịp kỷ niệm 50 năm
Hiến chế tín lý Lumen gentium
về Hội thánh đề cập đến các tu sĩ ở
chương VI, cũng như Sắc lệnh
Perfectae caritatis về việc canh
tân đời sống tu trì, tôi đã quyết định
mở ra một Năm Đời sống thánh hiến, bắt
đầu vào ngày 30 tháng 11 năm nay, chúa
nhật thứ I Mùa Vọng, và kết thúc vào lễ
Dâng Chúa Giêsu vào đền thờ, ngày 2
tháng 2 năm 2016.
Sau khi tham khảo Bộ Đời sống thánh hiến
và các Tu đoàn tông đồ, tôi đã đề ra cho
Năm nay những mục tiêu mà thánh Gioan
Phaolô II đã đề ra cho Giáo hội vào lúc
bắt đầu ngàn năm thứ ba, phần nào lấy
lại điều đã đề cập trong tông huấn hậu
thượng hội đồng Vita consecrata:
“Các con không chỉ có một lịch sử huy
hoàng để nhớ lại và tường thuật, mà còn
có một lịch sử oai hùng cần viết lên!
Hãy nhìn về tương lai, nơi mà Thánh Linh
đã dự định thực hiện cùng với các con
những điều trọng đại hơn nữa” (số 110).
I – Những mục tiêu của Năm Đời
sống thánh hiến
1. Mục tiêu thứ nhất là nhìn về quá
khứ với niềm tri ân. Mỗi Dòng của
chúng ta đều đến từ một lịch sử phong
phú của đặc sủng. Khởi đầu là tác động
của Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi trong
Thánh Linh một số người đi theo sát gót
Đức Kitô, để chuyển dịch Tin mừng ra một
lối sống đặc thù, để đọc các dấu chỉ
thời đại với cặp mắt đức tin, để đáp ứng
với những nhu cầu của Giáo hội một cách
sáng tạo. Thế rồi kinh nghiệm khởi đầu
được tăng tiến và phát triển, lôi cuốn
những phần tử sống trong những khung
cảnh mới của địa lý và văn hóa, tạo ra
những thể thức mới để thể hiện đặc sủng,
những sáng kiến và những lối diễn tả
lòng bác ái tông đồ mới mẻ, cũng tựa như
hạt giống trở thành một cây lớn với
nhiều cành lá xum xê.
Trong Năm nay, mỗi gia đình đặc sủng hãy
nhớ lại buổi khởi đầu của mình và những
chặng phát triển trải qua lịch sử, để tạ
ơn Thiên Chúa vì Ngài đã ban cho Hội
thánh biết bao hồng ân để trang điểm cho
Hội thánh và chuẩn bị sẵn sàng để thi
hành mọi công cuộc tốt lành (x. Lumen
gentium,
12).
Thuật lại lịch sử của mình là điều cần
thiết để duy trì căn tính cũng như để
siết chặt mối hợp nhất của gia đình và
tăng thêm cho các phần tử ý thức mình
thuộc về một nhà. Đây không phải là
chuyện khảo cổ hoặc luyến tiếc dĩ vãng,
nhưng là đi lại con đường của các thế hệ
quá khứ để nắm bắt được tia sáng gợi
hứng, những lý tưởng, những dự phóng,
những giá trị đã thúc đẩy họ, bắt đầu từ
các vị sáng lập và các cộng đoàn tiên
khởi. Đó cũng là một cách để ý thức được
cách thức mà tiền nhân đã sống đặc sủng,
những bước đột phá, những khó khăn đã
đương đầu và vượt qua. Ta cũng có thể
nhận ra những sự bất nhất do tính yếu
đuối của con người, thậm chí kể cả có
lúc quên mất những khía cạnh cốt yếu của
đặc sủng. Tất cả các khía cạnh ấy đều là
những bài học, và đồng thời kêu gọi hoán
cải. Thuật lại lịch sử của mình là một
cách để chúc tụng Thiên Chúa và tạ ơn vì
những ân huệ mà Ngài đã ban.
Cách riêng chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vì
50 năm tiếp theo công đồng Vaticanô
II. Công đồng thật là một “luồng
gió” của Thánh Linh cho toàn Giáo hội.
Nhờ công đồng, đời tu sĩ đã thực hịên
một bước đường canh tân phong phú, với
những ánh sáng và bóng tối của nó, dù
sao đó là thời điểm của ân huệ được
đánh dấu bởi sự hiện diện của Thánh
Linh.
Ước chi Năm Đời sống thánh hiến cũng là
một cơ hội để thú nhận sự mỏng dòn của
mình, với lòng khiêm tốn cũng với lòng
tín thác vào Thiên Chúa Tình yêu (1Ga
4,8), và để sống kinh nghiệm về tình
thương lân tuất của Chúa, một cơ hội để
thôi thúc mạnh mẽ và làm chứng vui vẻ về
sự thánh thiện và sức sống đang hiện
diện nơi phần lớn những kẻ được kêu gọi
đi theo Đức Kitô trong đời sống thánh
hiến.
2. Ngoài ra Năm nay cũng kêu gọi chúng
ra hãy sống hiện tại cách say mê.
Việc ôn lại quá khứ thúc đẩy chúng ta
hãy thể hiện những khía cạnh cấu tạo đời
sống thánh hiến của mình, nhờ chú ý lắng
nghe điều mà Thần khí nói với Hội thánh
ngày hôm nay.
Từ những buổi khai nguyên của đời đan tu
cho đến những “cộng đoàn mới” thời nay,
mỗi hình thức tu trì được nảy sinh do
tiếng gọi của Thánh Linh hãy đi theo Đức
Kitô theo như Tin mừng đã dạy (x. Perfectae
caritatis,
2). Đối với các vị sáng lập, Tin mừng
luôn là quy luật tuyệt đối, những luật
lệ khác chỉ là cách thức diễn đạt Tin
mừng và dụng cụ để sống Tin mừng cách
súc tích. Lý tưởng của các ngài là Đức
Kitô, gắn bó toàn thân với Người, đến
nỗi có thể nói như thánh Phaolô: “Đối
với tôi, sống là Đức Kitô” (Pl 1,21).
Các lời khấn chỉ có ý nghĩa khi làm thể
hiện tình yêu say đắm ấy.
Câu hỏi mà chúng ta được mời hãy đặt lên
trong Năm nay là: chúng ta có để cho Tin
mừng chất vấn không; Tin mừng có phải là
“sổ tuỳ thân” cho cuộc sống hằng ngày và
cho những lựa chọn của mình không. Tin
mừng thật là nghiêm khắc và đòi hỏi phải
sống triệt để và chân thực. Đọc Tin mừng
thì chưa đủ (mặc dù việc đọc và học luôn
cần thiết), suy gẫm cũng chưa đủ (và
chúng ta cần thích thú suy gẫm mỗi
ngày). Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta hãy
làm cho Tin mừng hiện thực, hãy sống lời
của Chúa.
Chúng ta hãy tự hỏi: Chúa Giêsu có còn
là tình yêu thứ nhất và độc nhất, như
chúng ta đã quyết tâm khi tuyên khấn
không? Chỉ khi nào được như vậy, thì
chúng ta mới có thể và buộc phải thương
yêu trong sự thật và lòng lân tuất hết
mọi người mà ta gặp trên đường, bởi vì
chúng ta đã học biết nơi Người tình yêu
là gì và yêu như thế nào: chúng ta sẽ
biết yêu bởi vì chúng ta có chính trái
tìm của Người.
Những vị sáng lập của chúng ta đã cảm
thấy trong mình lòng trắc ẩn của Chúa
Giêsu khi nhìn thấy đám đông như những
đàn chiên lưu lạc không kẻ chăn dắt.
Cũng như Chúa Giêsu động lòng trắc ẩn đã
trao ban lời của mình, đã chữa lành
những kẻ bệnh tật, đã phát bánh cho ăn,
thì các vị sáng lập cũng đặt mình phục
vụ nhân loại mà Thánh Linh đã sai họ
đến, dưới những thể thức đa dạng: chuyển
cầu, rao giảng Tin mừng, huấn giáo, giáo
dục, phục vụ người nghèo và người
bệnh... Óc tưởng tượng của lòng bác ái
không có giới hạn và luôn mở ra vô vàn
con đường mới để mang sinh khí của Tin
mừng vào các nền văn hóa và các môi
trường xã hội khác nhau.
Năm Đời sống thánh hiến chất vấn chúng
ta về sứ vụ đã được uỷ thác. Những công
tác, cơ sở, sự hiện diện để đáp ứng điều
mà Thánh Linh đã yêu cầu các vị sáng lập
có còn tương xứng để theo đuổi những mục
đích trong xã hội và Giáo hội thời nay
nữa không? Có điều gì cần phải thay đổi
không? Chúng ta còn giữ được lòng say mê
với đồng loại, chúng ta có gần gũi với
những người thân cận để chia sẻ những
niềm vui nỗi khổ của họ, để hiểu thấu
những gì họ đang cần, ngõ hầu góp phần
vào việc đáp ứng các nhu cầu đó không?
Thánh Gioan Phaolô II đã yêu cầu: «Lòng
quảng đại và hy sinh đã thúc đẩy các vị
sáng lập cũng phải thúc đẩy các con, là
những người con cái tinh thần của họ,
hãy duy trì các đặc sủng cách sinh động
để cho chúng được phong phú và thích
nghi mà không giảm bớt tính cách độc
đáo, với cũng một sức mạnh mà Thánh
Linh đã gợi lên, để phục vụ Giáo hội và
góp phần vào việc thiết lập Nước Thiên
Chúa»[1].
Việc tưởng nhớ nguồn gốc cũng làm sáng
tỏ một yếu tố khác của dự án đời sống
thánh hiến. Các vị sáng lập đã bị thu
hút bởi sự đoàn kết của nhóm Mười Hai
chung quanh Chúa Giêsu, bởi sự hiệp
thông độc đáo của cộng đoàn tiên khởi ở
Giêrusalem. Khi gầy dựng nên cộng đoàn,
mỗi vị sáng lập đều nhằm hoạ lại những
khuôn mẫu Tin mừng, đó là sống một trái
tim và một linh hồn, vui hưởng sự hiện
diện của Chúa (x. Perfectae
caritatis,15).
Sống hiện tại cách say mê có nghĩa là
trở nên “những chuyên viên hiệp thông”,
“những kẻ làm chứng và kiến tạo “dự án
hiệp thông” là chóp đỉnh của lịch sử
loài người theo ý định của Thiên Chúa
[2].
Trong một xã hội xung đột, một xã hội
khó chung sống giữa những nền văn hóa
với nhau, một xã hội chèn ép những kẻ cô
thế, xã hội bất bình đẳng, chúng ta được
kêu gọi trở nên khuôn mẫu cụ thể của
cộng đoàn có khả năng sống tương quan
huynh đệ, nhờ biết nhìn nhận phẩm giá
của mỗi người và chia sẻ các ân huệ mà
mỗi người đã lãnh được.
Vì thế anh chị em hãy là những con người
của sự hiệp thông, hãy can đảm hiện diện
tại những nơi có đố kị và tranh chấp, và
anh chị em hãy trở nên dấu chỉ khả tín
của sự hiện diện của Thánh Linh, Đấng đổ
tràn xuống các tâm hồn niềm sau mê cho
hết mọi người được trở nên một (x. Ga
17,21). Anh chị em hãy sống huyền
nhiệm của sự gặp gỡ: “khả năng lắng
nghe người khác, khả năng cùng nhau tìm
ra con đường, phương pháp”
[3],
hãy để cho mình được chiếu sáng bởi mối
tương quan tình yêu đã xuyên qua Tam Vị
(x. 1Ga 4,8) như khuôn mẫu cho mọi tương
quan liên bản vị.
3. Mục tiêu thứ ba của Năm nay là
nhắm đến tương lai với niềm hy vọng.
Chúng ta biết rằng đời sống thánh hiến
đang gặp nhiều khó khăn dưới mọi hình
thức: ơn gọi sụt giảm, các thành viên
tuổi cao, nhất là tại các nước Tây
phương, những vấn đề kinh tế tiêp theo
cuộc khủng hoảng tài chánh trầm trọng,
những thách đố của việc quốc tế hóa và
toàn cầu hóa, những nguy cơ của thuyết
tương đối, đời tu bị gạt ra bên lề và
không được xã hội trân trọng ... Giữa
những hoang mang mà chúng ta cùng chia
sẻ với bao nhiều người đương thời, bừng
lên niềm hy vọng của chúng ta, là hoa
trái của đức tin vào Đấng làm chủ lịch
sử và không ngừng lặp lại với chúng ta:
“Đừng sợ .. Ta đang ở với con” (Gr 1,8).
Niềm hy vọng nói đây không dựa trên số
lượng hoặc các cơ sở, nhưng ở trên Đấng
mà chúng ta đã đặt lòng tín thác (x. 2
Tm 1,12), Đấng mà “không có gì mà không
thể làm được” (Lc 1,37). Đó là niềm hy
vọng không lừa dối và cho phép đời sống
thánh hiến tiếp tục viết lên trang sử
trong tương lai, mà chúng ta cần phải
nhắm đến, với niềm xác tín rằng Thánh
Linh thúc đẩy chúng ta về tương lai để
tiếp tục thực hiện những điều vĩ đại
cùng với chúng ta.
Anh chị em đừng chiều theo chước cám dỗ
về số lượng và hiệu quả, lại càng không
nên tín thác vào sức riêng của mình. Hãy
lục lọi những chân trời của cuộc đời anh
chị em và của thời buổi hiện tại với sự
tỉnh thức. Cùng với đức Bênêđictô XVI,
tôi xin lặp lại: “Anh chị em đừng liên
minh với những ngôn sứ yếm thế dự đoán
sự chấm dứt đời sống thánh hiến vì mất ý
nghĩa ở thời đại này. Trái lại, anh chị
em hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô và khoác
vào binh giáp của ánh sáng – như thánh
Phaolô đã khuyên nhủ - trong thái độ
tỉnh thức mong chờ”
[4].
Chúng ta hãy tiếp tục và luôn luôn tiến
bước với niềm tín thác vào Chúa.
Tôi muốn ngỏ lời đặc biệt với các bạn
trẻ. Các bạn là hiện tại bởi vì các bạn
đang sống trong Dòng, và mang lại sự
đóng góp quyết định cho Dòng nhờ sự trẻ
trung và quảng đại của cuộc lựa chọn của
các bạn. Đồng thời các bạn cũng là tương
lai bởi vì các bạn sẽ được gọi để nắm
giữ vai trò điều khiển việc linh hoạt,
huấn luyện, phục vụ, sứ vụ của dòng.
Trong năm nay, các bạn sẽ là những người
chủ động trong cuộc đối thoại với thế hệ
đàn anh. Trong tình hiệp thông huynh đệ,
các bạn có thể học hỏi kinh nghiệm và sự
khôn ngoan của họ để trau dồi hiểu biết,
và đồng thời, các bạn có thể đề nghị với
họ lý tưởng của Dòng thuở ban đầu, mang
lại sức năng động tươi trẻ nhờ lòng phấn
khởi của các bạn, ngõ hầu thảo ra những
phương hướng mới để sống Tin mừng, và
mang lại những giải đáp cân xứng cho
nghĩa vụ phải làm chứng và loan báo.
Tôi rất vui mừng vì biết rằng các bạn
trẻ thuộc nhiều dòng sẽ có những cơ hội
gặp gỡ nhau. Ước mong những cuộc gặp gỡ
này sẽ trở thành con đường thường xuyên
để hịêp thông, để nâng đỡ lẫn nhau, để
liên kết.
-----------
[1] Tông
thư Los
caminos del Evangelio,
gửi các tu sĩ nam nữ Mỹ châu Latinh nhân
dịp 5 năm truyền giảng Tin mừng tại thế
giới mới (29-6-1990), 26.
[2]
Bộ Dòng tu và Tu hội đời , Các
tu sĩ và sự thăng tiến con người,
(12-8-1980), 24
[3] Diễn
từ cho các giám đốc và sinh viên của các
học viện giáo hoàng và lưu xá tại Rôma,
(12-5-2014).
[4] Bài
giảng lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền thờ
(2-2-2013)
II.
Những mong đợi cho Năm Đời sống thánh hiến
Tôi mong đợi điều gì cách riêng
trong Năm hồng ân của Đời sống thánh hiến?
1. Tôi ước mong rằng luôn luôn
thực hiện được điều mà tôi đã có lần nói: “Đâu có các tu sĩ
thì có niềm vui”. Chúng ta được mời gọi cảm nghiệm và chứng
tỏ rằng Thiên Chúa có khả năng lấp đầy con tim của chúng ta
và làm cho chúng ta được hạnh phúc, không cần phải đi tìm
hạnh phúc ở đâu khác; chứng tỏ rằng tình huynh đệ chân chính
sống trong các cộng đoàn của chúng ta nuôi dưỡng niềm vui;
chứng tỏ rằng sự tận hiến để phục vụ Giáo hội, các gia đình,
các người trẻ, các người già, các người nghèo giúp cho chúng
ta đạt được sự thành tựu bản thân và mang lại ý nghĩa trọn
vẹn cho cuộc đời.
Tôi ước mong rằng giữa chúng ta
không có những khuôn mặt buồn rầu, những con người bực bội
bất mãn, bởi vì “ai buồn bã đi theo Chúa thì việc đi theo
Chúa đáng buồn”[1].
Cũng như bao sinh linh khác, chúng ta cũng trải nghiệm những
khó khăn, những đêm tối tinh thần, những thất vọng, bệnh tật,
kiệt sức do tuổi tác. Chính trong hoàn cảnh đó mà chúng ta
cần phải khám phá “sự hoan hỉ hoàn hảo”, học cho biết cách
nhận ra khuôn mặt Đức Kitô Đấng đã trở nên giống như chúng
ta mọi đàng, và vì thế cảm nghiệm sự vui mừng vì biết rằng
mình được nên giống kẻ vì yêu thương ta đã không khước từ
thập giá.
Trong một xã hội sùng thượng hiệu
năng, sức khỏe, thành công, và gạt bỏ những người nghèo và
loại trừ những kẻ “thất thế”, ước chi bằng đời sống của mình
chúng ta chứng minh sự thật của lời Kinh thánh: “Khi tôi yếu
ớt là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10).
Ước gì chúng ta có thể áp dụng
cho đời sống thánh hiến điều đã viết trong tông thư
Evangelii gaudium, trích dẫn bài giảng của đức
Bênêđictô XVI: “Giáo hội tăng gia không bởi chiêu mộ nhưng
bởi thu hút” (số 14). Thật vậy, đời sống thánh hiến không
tăng gia nếu chúng ta tổ chức những chiến dịch quy mô cổ vũ
ơn gọi, nhưng là nếu những người trẻ gặp gỡ chúng ta cảm
thấy bị thu hút vì họ nhận ra chúng ta hạnh phúc! Một cách
tương tự như vậy, hiệu năng tông đồ không lệ thuộc vào hiệu
năng dồi dào của các phương tiện. Phải làm sao cho chính
cuộc đời của anh chị em trở thành tiếng nói, cuộc đời chiếu
tỏa niềm vui và vẻ đẹp của việc sống Tin mừng và của việc đi
theo Đức Kitô.
Tôi nhắc lại cho anh em chị em
điều tôi đã nói với các Phong trào giáo hội vào lễ Vọng lễ
Chúa Hiện xuống: “Giá trị căn bản của Giáo hội nằm ở chỗ
sống Tin mừng và làm chứng cho đức tin. Giáo hội là muối của
đất, là ánh sáng của đời, Giáo hội được kêu gọi làm cho men
của Vương quốc Thiên Chúa hiện diện trong xã hội, và Giáo
hội thực hiện ơn gọi này tiên vàn bằng sự chứng tá, chứng tá
của tình yêu huynh đệ, của tình liên đới, của sự chia sẻ”
(18-5-2013).
2. Tôi ước mong rằng anh chị em
sẽ “đánh thức thế giới”, bởi vì đặc trưng của đời sống thánh
hiến là tính ngôn sứ. Như tôi đã nói với các bề trên tổng
quyền: “tính cách triệt để không chỉ dành riêng cho các tu
sĩ, nhưng là điều đòi hỏi hết mọi người. Nhưng các tu sĩ đi
theo Chúa một cách đặc biệt, đó là cách thức ngôn sứ”. Đây
là điều đòi hỏi ưu tiên: “những ngôn sứ chứng tá cho Đức
Giêsu đã sống ở thế giới này ... Một tu sĩ không bao giờ
được khước từ tính ngôn sứ” (29-11-2013).
Ngôn sứ được Chúa ban khả năng
truy tầm lịch sử mình đang sống và giải thích những biến cố,
tựa hồ người lính canh ban đêm và biết được khi nào hừng
đông đến (x. Is 21,11-12). Hiểu biết Thiên Chúa và hiểu biết
những người anh chị em của mình. Ngôn sứ có khả năng phân
định và tố giác tội ác và những bất công, bởi vì ông là con
người tự do, chỉ trả lời với Thiên Chúa chứ không trả lời
cho quyền bính nào hết, họ chỉ quan tâm đến lợi lộc của
Thiên Chúa chứ chẳng có lợi lộc nào khác. Ngôn sứ thường
đứng về phía những người nghèo và những người cô thân cô
thế, bởi vì ông biết rằng chính Thiên Chúa đứng về phía họ.
Vì thế tôi ước mong rằng không
phải là anh chị em hãy nuôi dưỡng những “chỗ không tưởng”,
nhưng là biết tạo ra “những chỗ khác”[2],
nơi mà người ta sống cái logic của Tìn mừng về sự trao ban,
tình huynh đệ, tiếp nhận sự khác biệt, yêu thương lẫn nhau.
Các đan viện, cộng đoàn, trung tâm linh đạo, thị xã, trường
học, bệnh viện, nhà tình thương và tất cả những nơi đã hoặc
vẫn còn nảy sinh do lòng bác ái và sự sáng tạo đặc sủng, đều
cần phải trở nên men cho một xã hội được gợi hứng dựa theo
Tin mừng, “đô thị cất trên núi” nói lên sự thật và sức mạnh
của những lời của Chúa Giêsu.
Đôi khi ngôn sứ cũng cảm thấy sự
cám dỗ, giống như ông Elia và Giôna, muốn bỏ trốn, thoái
thác tránh nhiệm, bởi vì thấy quá nặng nề, bởi vì mình đã
mệt mỏi, chán nản vì không được kết quả. Nhưng ngôn sứ biết
rằng mình không cô đơn. Thiên Chúa trấn an chúng ta cũng tựa
như với ông Giêrêmia: “Đừng sợ, ta ở với con để che chở con”
(Gr 1,8).
3. Các tu sĩ và những người tận
hiến được mời gọi trở nên những “chuyên viên hiệp thông”. Vì
thế tôi mong rằng “linh đạo hiệp thông” mà thánh Gioan
Phaolô II đã chỉ ra, sẽ trở thành thực tại, và anh chị em sẽ
là những người đầu tiên đón nhận “sự thách đố lớn lao ở
trước mặt” trong ngàn năm mới: “làm cho Giáo hội là ngôi nhà
và trường học của hiệp thông”
[5]. Tôi chắc
rằng trong Năm nay, anh chị em cố gắng để cho lý tưởng huynh
đệ mà các vị sáng lập theo đuổi sẽ tăng trưởng ở nhiều cấp
độ, tựa hồ những vòng tròn đồng tâm.
Tiên vàn sự hiệp thông được thực
hành ngay tại các cộng đoàn trong dòng. Tôi mời anh chị em
hãy đọc lại điều mà tôi không ngừng lặp đi lặp lại nhiều lần
rằng những lời chỉ trích, đàm tiếu, ghen tương, tị hiềm, đố
kỵ không được phép cư ngụ ở trong nhà của anh chị em. Sau
tiền đề ấy, con đường bác ái còn lại hầu như là vô tận, bởi
vì bao gồm việc đón tiếp và quan tâm lẫn nhau, thực hành sự
chia sẻ những tài nguyện vật chất và tinh thần, sửa bảo
huynh đệ, tôn trọng những người yếu đuối, ... Chính “huyền
nhiệm chung sống với nhau” làm cho cuộc đời trở nên một cuộc
“lữ hành thánh thiện”
[6]. Chúng ta
cũng phải tự vấn về tương quan giữa những người thuộc về
những nền văn hóa khác nhau, xét vì các cộng đoàn của chúng
ta càng ngày càng trở thành quốc tế. Làm cách nào để cho mỗi
người có thể biểu lộ chính mình, được đón nhận với những ân
ban đặc thù, được hoàn toàn đồng trách nhiệm?
Ngoài ra tôi ước mong tăng gia sự
hiệp thông giữa các phần tử của các dòng tu. Liệu Năm Đời
sống thánh hiến có thể trở nên cơ hội để mạnh dạn ra khỏi
biên cương của Dòng mình, để cũng nhau thảo hoạch những dự
án chung về đào tạo, loan báo Tin mừng, hoạt động xã hội, ở
cấp địa phương và hoàn vũ không? Như thế chứng tá ngôn sứ sẽ
được hữu hiệu hơn. Sự hiệp thông và gặp gỡ giữa các đặc sủng
và ơn gọi khác nhau là một con đường hy vọng. Không ai xây
dựng tương lai một cách biệt lập, hoặc với sức lực riêng của
mình, nhưng cần biết nhận ra chân lý của sự thông hiệp khiến
ta mở rộng đến gặp gỡ, đối thoại, lắng nghe, giúp đỡ lẫn
nhau, và như vậy giúp chúng ta phòng ngừa khỏi bệnh tự kỷ[3].
Đồng thời đời sống thánh hiến
được mời gọi hãy theo đuổi một sự hợp lực với các ơn gọi
trong Giáo hội, khởi đầu từ các linh mục và giáo dân, ngõ
hầu “tăng gia linh đạo hiệp thông trước tiên ở trong nội bội,
rồi đến trong cộng đồng Giáo hội và đi xa hơn nữa”[7].
4. Tôi cũng mong đợi nơi anh chị
em điều mà tôi yêu cầu tất cả mọi thành phần của Giáo hội:
ra khỏi chính mình và đi về những vùng ngoại ô của cuộc đời:
“Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ”, đó là những lời cuối cùng
của Chúa Giêsu ngỏ với các môn đệ và hôm nay vẫn còn ngỏ cho
tất cả mỗi người chúng ta (x. Mc16,15). Cả một nhân loại
đang chờ đợi: những người đã mất hết hy vọng, những gia đình
đang gặp khó khăn, những trẻ thơ bị bỏ rơi, các bạn trẻ gặp
ngõ cụt trước tương lai, những người già lão bệnh tật bị
loại trừ, những người giàu của cải nhưng trống rỗng trong
lòng, những người đang tìm ý nghĩa cuộc đời, khao khát đời
tâm linh...
Anh chị em đừng khép lại trong
chính mình, đừng để mình bị ngột ngạt với những chuyện lẩm
cẩm trong nhà, đừng bị giam hãm trong những vấn đề nội bộ.
Những vấn đề này sẽ được giải quyết nếu anh chị em đi ra
ngoài để giúp những người khác giải quyết những vấn đề của
họ và loan báo Tin mừng. Anh chị em sẽ tìm thấy sự sống khi
ban phát sự sống, tìm thấy hy vọng khi ban phát hy vọng, tìm
thấy tình thương bằng cách yêu thương.
Tôi mong đợi nơi anh chị em những
cử chỉ cụ thể của việc đón tiếp người di dân, gần gũi những
người nghèo, những cử chỉ sáng tạo trong việc huấn giáo, rao
giảng Tin mừng, hướng dẫn cầu nguyện. Vì thế tôi mong ước
giản lược các cơ cấu, tái sử dụng các ngôi nhà lớn để giúp
vào những công tác thích ứng hơn đối với những yêu sách hiện
tại của việc loan báo Tin mừng và bác ái, thích nghi các cơ
sở với những nhu cầu mới.
5. Tôi mong đợi rằng mỗi hình
thức đời sống thánh hiến hãy tự vấn về điều mà Thiên Chúa và
nhân loại hiện đang đòi hỏi.
Các đan viện và những nhóm có
khuynh hướng chiêm niệm có thể gặp gỡ nhau, hoặc liên kết
với nhau để trao đổi những kinh nghiệm về đời cầu nguyện, về
cách thức tăng trưởng sự hiệp thông với toàn thể Giáo hội,
về cách thức nâng đỡ các Kitô hữu bị bách hại, về cách thức
đón tiếp và đồng hành những ai đang tìm kiếm một đời sống
thiêng liêng sâu xa hơn hoặc đang cần sự nâng đỡ tinh thần
hay vật chất.
Các dòng tu chuyên lo việc bác ái,
giáo dục, cổ động văn hóa cũng có thể làm như vậy, cũng như
những dòng dấn thân vào việc loan báo Tin mừng, hay thi hành
những tác vụ mục vụ chuyên biệt, những tu hội đời đang hoạt
động bằng sự hiện diện trong các cơ cấu xã hội. Óc tưởng
tượng của Thánh Linh đã sản sinh những lối sống và những
công cuộc đa dạng mà ta không thể nào phân loại và sắp xếp
vào những khung đúc sẵn, Vì thế tôi không thể nào kể ra từng
hình thái đặc sủng được. Tuy vậy, trong Năm nay, đừng ai
tránh né việc kiểm tra nghiêm túc về sự hiện diện của mình
trong Giáo hội và về cách thức đáp ứng những yêu cầu liên
tục và mới mẻ đang vang lên chung quanh chúng ta, đáp ứng
với tiếng kêu của người nghèo.
Duy chỉ khi quan tâm đến những
nhu cầu của thế giới và ngoan ngoãn với Thánh Linh, thì Năm
đời sống thánh hiến mới biến thành kairos một thời
điểm dồi dào ân lộc của Thiên Chúa, một thời điểm làm biến
đổi.
III – Những chân trời của
Năm đời sống Thánh hiến
1. Với bức thư này, ngoài những
người tận hiến, tôi ngỏ lời với các giáo dân chia sẻ lý
tưởng, tinh thần, sứ vụ với họ. Một vài dòng đã có một kinh
nghiệm lâu dài về lãnh vực này, những dòng khác chỉ mới có
kinh nghiệm gần đây. Thật vậy, chung quanh mỗi dòng tu cũng
như chung quanh các Tu đoàn tông đồ và cả những Tu hội đời,
có một gia đình rộng lớn hơn, “gia đình đặc sủng” bao gồm
nhiều dòng nhận biết nhau trong cùng một đặc sủng, và nhất
là những giáo dân cảm thấy mình được kêu gọi chia sẻ đặc
sủng ấy trong điều kiện giáo dân của mình.
Tôi khuyến khích các anh chị em,
những giáo dân, hãy sống Năm Đời sống Thánh hiến như là một
hồng ân có thể giúp cho mình ý thức hơn về ân huệ đã lãnh
nhận. Anh chị em hãy cử hành Năm nay cùng với toàn thể “gia
đình” để tăng trưởng và cùng nhau đáp lại những tiếng gọi
của Thánh Linh trong xã hội hôm nay. Trong vài cơ hội, khi
những người tận hiến thuộc những dòng khác nhau gặp gỡ nhau,
thì anh chị em hãy tìm cách để cũng hiện diện như là biểu
hiệu hồng ân duy nhất của Thiên Chúa, ngõ hầu biết được kinh
nghiệm của những gia đình đặc sủng khác, của những nhóm giáo
dân khác, và nhờ đó mà trở nên phong phú hơn và nâng đỡ lẫn
nhau.
2. Năm Đời sống thánh hiến không
chỉ liên quan đến những người tận hiến mà còn đến toàn thể
Giáo hội. Vì thế tôi ngỏ lời với toàn dân Kitô giáo
để ý thức hơn ân huệ của sự hiện diện của biết bao người tận
hiến, thừa kế của những đại thánh đã làm nên lịch sử của
Kitô giáo. Giáo hội sẽ ra thế nào nếu không có thánh Biển
đức và thánh Basiliô, nếu không có thánh Augustinô và thánh
Bênađô, nếu không có thánh Phanxicô và thánh Đaminh, nếu
không có thánh Inhaxiô Loyola và thánh Têrêsa Avila, nếu
không có thánh Angela Merici và thánh Vinh-sơn Phaolô. Danh
sách hầu như bất tận, cho đến thánh Gioan Bosco, chân phước
Têrêsa Avila? Chân phước Phaolô VI đã nói: “nếu không có dấu
chỉ cụ thể này, đức mến hun nóng toàn Giáo hội có nguy cơ sẽ
nguội đi, sự nghịch lý cứu độ của Tin mừng sẽ cùn đi, “muối”
đức tin sẽ hoà tan trong một thế giới trên đường tục hóa” (Evangelica
testificatio, 3).
Vì thế tôi mời gọi tất cả mọi
cộng đồng Kitô hãy sống Năm nay trước hết để tạ ơn Thiên
Chúa và nhớ lại những hồng ân mà chúng ta đã và còn đang
nhận lãnh nhờ sự thánh thiện của những vị sáng lập và sự
trung thành với đặc sủng của biết bao người tận hiến. Tôi
mời gọi hết mọi người hãy kề sát những người tận hiến, để
chia vui với họ, để san sẻ những khó khăn của họ, để hợp tác
với họ, trong tầm mức có thể được, trong việc thực thi tác
vụ và công việc của họ mà cũng là của toàn thể Giáo hội. Hãy
giúp họ cảm nhận được lòng ưu ái và thiện cảm của toàn thể
dân Chúa.
Tôi chúc tụng Chúa vì sự trùng
hợp may mắn giữa Năm Đời sống thánh hiến với Thượng hội
đồng về gia đình. Gia đình và đời sống thánh hiến là
những ơn gọi mang lại sự phong phú và ân điển cho mọi người,
những không gian kiến thiết các tương quan nhân bản , những
nơi loan truyền Tin mừng. Gia đình và đời sống thánh hiến có
thể giúp đỡ lẫn nhau.
3. Với bức thư này, tôi mạo muội
ngỏ lời với những người tận hiến và những phần tử của các
huynh đoàn và cộng đoàn thuộc các Giáo hội ngoài công giáo.
Đời đan tu là một gia sản của Giáo hội hiệp nhất, vẫn còn
sinh động bên các Giáo hội chính thống và bên Giáo hội công
giáo. Từ nếp sống đan tu cũng như từ những kinh nghiệm kế
tiếp vào thời mà Giáo hội tây phương còn hợp nhất, nhiều dự
án khác được gợi hứng giữa lòng các cộng động Giáo hội của
phái Cải cách, và rồi tiếp tục sản sinh những hình thức khác
của tình hiệp thông huynh đệ và phục vụ.
Bộ các hội dòng tận hiến và tu
đoàn tông đồ đã phác thảo chương trình gặp gỡ giữa các phần
tử thuộc đời sống thánh hiến và huynh đệ thuộc về các giáo
hội khác nhau. Tôi hết lòng khuyến khích những cuộc gặp gỡ
này, ngõ hầu tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, sự quý trọng
và hợp tác hỗ tương, nhờ vậy sự đại kết của đời sống thánh
hiến sẽ giúp cho con đường hợp nhất giữa tất cả các Giáo hội.
4.
Chúng tôi không thể quên rằng
hiện tượng tu trì cũng hiện hữu trong tất cả các tôn giáo
lớn. Không thiếu những kinh nghiệm đối thoại liên tôn về đời
đan tu giữa Giáo hội công giáo và một vài truyền thống tôn
giáo lớn. Tôi cầu chúc cho Năm đời sống thánh hiến trở thành
cơ hội để lượng định con đường đã đi, để gây ý thức nơi các
người tận hiến về lãnh vực này, để tự vấn về những bước kế
tiếp phải làm ngõ hầu tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau sâu xa
hơn, và hợp tác trong khá nhiều môi trường chung nhằm phục
vụ đời sống nhân loại.
Việc đồng hành luôn vẫn là giúp
nhau trở nên phong phú hơn và mở ra những đường hướng mới
cho việc gặp gỡ giữa các dân tộc và văn hoá trong giai đoạn
này đang gặp nhiều chướng ngại.
5. Sau cùng tôi ngỏ lời cách
riêng với những anh em trong hàng giám mục. Mong sao cho Năm
nay là cơ hội thuận tiện để tiếp đón thân mật và hân hoan
đời sống thánh hiến như là một nguồn vốn liếng tinh thần góp
phần vào thiện ích của toàn thể Hội thánh (x. Lumen
gentium, 43) chứ không chỉ riêng gì của các dòng tu.
“Đời sống thánh hiến là hồng ân cho Giáo hội, phát sinh
trong Giáo hội, tăng trưởng trong Giáo hội, và hoàn toàn
hướng về Giáo hội”
[8]. Vì thế,
xét như là hồng ân cho Giáo hội, đời sống thánh hiến không
phải là một thực thể lẻ loi, nhưng thuộc về bản chất của
Giáo hội, nằm trong tâm điểm của Giáo hội như là yếu tố
quyết định của sứ mạng Giáo hội, xét vì nó diễn tả bản chất
thâm sâu của ơn gọi Kitô giáo, và nỗi khắc khoải của Giáo
hội Hôn thê mong được kết hiệp với Hôn phu duy nhất; vì thế
đời sống thánh hiến “chắc chắn thuộc về sự sống và sự thánh
thiện của Giáo hội” (Lumen gentium, 44).
Trong bối cảnh này, tôi mời gọi
anh em, những mục tử của các giáo hội địa phương, hãy ân cần
cổ động trong cộng đồng của anh em, các đặc sủng khác nhau,
dù cũ hay mới, bằng cách nâng đỡ, linh hoạt, giúp đỡ trong
việc phân định, âu yếm gần gũi họ trong những hoàn cảnh đau
đớn và yếu đuối mà một vài người tận hiến có thể gặp phải,
và nhất là bằng cách dạy dỗ để soi sáng cho dân Chúa biết
giá trị của đời sống thánh hiến nhờ vậy làm nổi bật vẻ đẹp
và sự thánh thiện của Giáo hội.
Tôi ký thác Năm đời sống thánh
hiến cho Đức Maria, Trinh nữ của lắng nghe và chiêm niệm,
môn sinh tiên khởi của người Con yêu dấu của mình. Chúng ta
hãy nhìn ngắm Người, là nữ tử quý mến của Chúa Cha và được
trang điểm bởi mọi hồng ân, như mẫu gương tuyệt vời của việc
đi theo Chúa Kitô trên đường yêu mến Thiên Chúa và phục vụ
tha nhân.
Hợp với anh chị em trong tâm tình
biết ơn vì những ơn huệ dồi dào của ân sủng và ánh sáng mà
Chúa thương ban, tôi đồng hành với anh chị em với phép lành
Tòa thánh.
Vaticanô, ngày 21 tháng 11
năm 2014, lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thờ.
Phanxicô
Lm. Giuse Phan Tấn Thành,
OP. chuyển ngữ
[1] Nhại câu ngạn ngữ: “một ông thánh buồn là ông
thánh đáng buồn (un saint triste est un triste saint).
Đi theo Chúa mà buồn thì chuyện đi theo Chúa thật là
buồn.
[2] Một lối chơi chữ: utopia (không tưởng)
gốc Hy lạp có nghĩa là “nơi không có”, được đổi thánh
“nơi mới”, nghĩa là nơi được điều khiển bởi lôgic của
Tin mừng, chứ không theo lối tính toán của người đời.
[3] Tự kỷ (auto-referenziale): chỉ nghĩ tới mình.
Tác giả:
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP
(chuyển ngữ)
|