CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN A
(Is 49:3, 5-6; 1Cr 1:1-3; Ga 1:29-34)
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
Khi ấy, ông Gioan thấy Chúa Giesu tiến về phía mình thì liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đấng xóa tội trần gian…”
Hình ảnh Gioan Tiền Hô trong bài Tin Mừng hôm nay (Ga 1:29-34) lại một lần nữa như muốn đưa chúng ta trở lại Mùa Vọng để suy niệm về cuộc tương phùng giữa Gioan Tiền Hô và Đức Giesu ở sông Jordan với phép Thanh Tẩy để rồi có những quyết định cho cuộc sống của mình. Thánh Gioan thánh sử kể lại câu chuyện đức Giesu chịu phép rửa khác hẳn với ba thánh sử kia, ngay cả cách cắt nghĩa về lịch sử. Thánh Gioan không nói đến truyền thống và liện hệ họ hàng giữa Gioan Tiền Hô và Đức Giesu, bà Elizabeth và mẹ Maria như trong Luca (Lc 1). Trong Tin Mừng Gioan, phép rửa không liên hệ đến tha thứ tội lỗi. Mục đích của nó lại có tính khải huyền, nghĩa là chúa Giesu muốn tỏ mình cho dân Israel. Đối với Gioan, những biến cố có tính niên sử thì không bao giờ đầy đủ, điều quan trọng là những biến cố đó phải có tác động làm chứng về Chúa Giesu.
Gioan thánh sử quả là muốn làm ngược lại phong trào coi Gioan Tiền Hô cao hơn Đức Giesu. Ông không kể lại biến cố phép rửa; nhưng thay vào đó, ông đặt nặng ý nghĩa chứng nhân của Gioan Tiền Hô ở tác động phép rửa. Ông nhắc đến Gioan Tiền Hô là người công khai tuyên bố lý do sự hiện hữu của mình: “Tôi hiện hữu, tôi đến, là để cho chúa Giesu được nhận biết.”
NHẬN BIẾT CHÚA GIESU
Cuối cùng Gioan Tiền Hô đã đến và nhận biết đức Giesu thế nào? Ông đã phối hợp những lời tiên tri với sự thúc đẩy của đấng đã sai đức Giesu đến với ông để chịu phép rửa cũng như việc ông gặp gỡ những người ăn năn thống hối và những kẻ hồ nghi. Gioan thánh sử đã nhận ra người mà lời nói và việc làm chứng tỏ có chúa Thánh Thần hoạt động chính là người mà ông biết sẽ chịu phép rửa bởi chúa thánh thần và bằng lửa. Ngay cả với Gioan Tiền Hô cũng cần phải có thời gian quan sát mới nhận ra người mà Chúa Thánh Thần ngự trên đầu là đức Giesu thành Nazareth. Đây không phải là một nhận biết bộc phát hay tất nhiên. Nó đến từ từ vì nó đã bám vào những môi trường quen thuộc chung quanh cùng một cách thức như vậy.
Để có một cái nhìn Kito giáo thực sự và đúng nghĩa về sự liên hệ giữa đức Giesu và Gioan Tiền Hô, Gioan thánh sử đã đặt trọng tâm vào việc chứng minh chúa Giesu thực sự là Tôi Tớ Thiên Chúa như trong những bài ca tôi tớ của Isaiah. Bài đọc 1 hôm nay sách Isaiah (Is 49:3, 5-6) là bài ca thứ hai trong bốn bài ca “tôi tớ đau khổ” của Isaiah.
Tiếng nói phát ra từ trời báo hiệu cho Gioan Tiền Hô biết người mà Thần Linh Thiên Chúa ngự trên đầu là đấng Thiên Chúa chọn và chịu phép rửa bởi chúa Thánh Thần. Câu sau cùng của bài Phúc Âm hôm nay là một xác tín mà tất cả chúng ta phải nhận biết, coi lời nói của Gioan Tiền Hô là “hiển nhiên”. Mỗi người chúng ta đều được linh hứng để nói “Tôi đã thấy và tôi làm chứng, Người là Con Thiên Chúa”(c.34). Xác quyết này đã âm thầm bám rễ chặt trong tâm chúng ta và biến chúng ta thành “Ánh Sáng Muôn Dân” tỏa chiếu trên mọi quốc gia dân tộc.
CHIÊN THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG THIÊN SAI TỬ ĐẠO
Câu 29 trong bài Phúc Âm hôm nay là thuật lại lời ông Gioan nói khi thấy chúa Giesu tiến đến gần mình: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đấng xóa tội trần gian”. Kiểu nói “Chiên Thiên Chúa” có một ý nghĩa rất hàm xúc và đắc địa mà chúng ta vẫn dùng để cầu nguyện trong thánh lễ. Ẩn dấu đằng sau danh hiệu Chiên Thiên Chúa có thể là chiên khải huyền toàn thắng sẽ hủy giệt mọi ác quỉ (Kh 5-7; 17:14), chiên vượt qua máu sẽ đổ ra để cứu chuộc dân Israel (Xh 12) hoặc tôi tớ đau khổ bị giết giống như chiên bị giết để tế lễ xá tội (Is 53:7, 10).
Trong Tân Ước, chiên và cừu là những biểu tượng không chỉ hàm ý là chúa Kito mà còn cả những ai theo người. Trong những trường hợp này, chúa Giesu là người chăn chiên và những người theo Chúa là đàn chiên. Chúa Giesu đi tìm chiên lạc cho đến khi thấy lại được trong khi để ở nhà những chiên kia an bình tự chăm sóc nhau. Chúa Kito là nạn nhân nói lên tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta được tượng hình là con chiên. Đối với người Kito hữu, Chúa là “chiên” được miêu tả trong sách Isaiah: Bị hành hạ trà đạp, nhưng Người khiêm nhường, không bao giờ cất tiếng than van, giống như con cừu bị giết trong lò sát sinh, chiên mang đi cắt lông hay tế lễ, chúng không hề mở miệng kêu ca.
Phero khi được Chúa Giesu ủy thác coi sóc đoàn chiên đã được căn dặn phải nuôi dưỡng cả chiên nhỏ lẫn chiên lớn. Chúa Giesu gửi các môn đệ ra đi khắp thế giới không có khí giới, không tiền bạc, không uy quyền giống như “chiên giữa bày sói”. Những người chết vì tin vào Tin Mừng Chúa Giesu Kito, không bảo vệ mình bằng bạo động dưới mọi hình thức là đã theo gương chúa Giesu. Tử vì đạo giống như “chiên bị mang đi giết trong lò sát sinh”. Chiên đau đớn vì bị bạo hành nhưng nó không đáng phải bị như vậy. Tất cả chúng đều là biểu tượng của vô tội. Chiên thì luôn luôn thích hợp để làm lễ vật hiến tế. Khi Gioan Tiền Hô gọi chúa Giesu là “Con Chiên Thiên Chúa”, ông ám chỉ đức Giesu là đấng Thiên Sai, người mà trong suốt cuộc sống và lúc chết đều biểu lộ bản tính thực của Thiên Chúa.
TỬ VÌ ĐẠO LÀ LÀM CHỨNG NHÂN
Phép rửa ban cho chúng ta ân sủng để làm chứng nhân, đôi khi đưa chúng ta đến tột đỉnh là phải hy sinh mạng sống vì niềm tin, bởi lẽ chúng ta đã được liên kết với chúa Kito và được Người in dấu. Danh từ “Tử-Vì-Đạo” tự nó dã nói lên ý nghĩa của nó. Tiếng này dịch từ chữ Martyr mà nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là “chứng nhân”, là người sẵn sàng và tự do chịu đau khổ, hy sinh mạng sống mình vì niềm tin. Người tử vì đạo thà chết hơn là chối bỏ niềm tin của mình bằng lời nói và việc làm. Họ nhẫn nhục chịu đau khổ theo gương chúa Kito, không hề chống đối lại kẻ cáo gian và truy tố mình. Người tử vỉ đạo thực chết vì nguyên do thánh. Người tử vỉ đạo giả chết không vì nguyên do thánh mà vì những căn cớ thế tục. Môi trường tử đạo không là quá khứ, nhưng là hiện tại ngày nay. Thực tế cho thấy ở thế kỷ vừa qua, người Kito hữu đã chịu tử vì đạo một cách phi thường ngoài sức tưởng tượng của con người.
Người Kito hữu trong Giáo Hội sơ khai đã là những chứng nhân cho sự thật của Kito Giáo thời ấy. Bất cứ lúc nào họ cũng liên đới trách nhiệm phải chọn lựa giữa chết và chối bỏ chứng tá của mình. Nhiều người đã cương quyết chấp nhận đau khổ và chết chứ không từ bỏ Chúa. Cuộc tử đạo giúp cho những chứng nhân Kito giáo thực sự có ý nghĩa; họ không đi tìm hay chiếm đoạt quyền lực, uy danh, nhưng dâng hiến sự sống của mình vì chúa Kito. Họ chứng tỏ cho thế giới biết sức mạnh của họ không phải là khí giới nhưng là tình yêu người trọn vẹn. Tình yêu đó đã được Thiên Chúa ban cho những ai bước theo Chúa Kito đến độ hiến dâng mạng sống mình vì Người. Vì vậy, người Kito hữu, từ lúc có Kito giáo cho đến nay, luôn luôn bị truy nã vì Tin Mừng Phúc Âm đúng như chúa Giesu tuyên bố: “Nếu họ truy nã thầy, họ sẽ truy nã anh em” (Ga 15:20).
Thánh Agnes thành Roma mà Giáo Hội sắp mừng lễ kính vào ngày 21 tháng 1 sắp đến là một gương tử dạo sáng ngời từ nhiều thế kỷ cho đến nay. Một cô gái mới 13 tuổi mà đã dám chết cho niềm tin. Em tử vì đạo vì từ chối không chịu lấy một công dân La Mã giàu có làm chồng. Em dõng dạc tuyên bố em không bao giờ cưới bất cứ một ai ngoài đức Giesu Kito. “Đã từ lâu -nàng nói- tôi đã đính hôn với một vị hôn phu vô hình ở trên trời; tim tôi thuộc về chàng, tôi sẽ trung thành với chàng cho đến chết”. Tên nàng là Agna có nghĩa là tinh trong theo ngôn ngữ Hy Lạp, và là con chiên theo tiếng Latin. Nàng là một trong nhiều nạn nhân của cuộc truy nã người Kito hữu thời Diocletian.
Là thánh, Agna / Agnes là người theo gương chúa Giesu Kito. Là vị tử vì đạo, nàng chết giống như chúa Kito. Là một nữ đồng trinh, nàng giữ trọn niềm tin, hy vọng và tình yêu sống động ngay giữa những bạo động kinh hoàng. Agnes chịu phép rửa bằng cái chết của chúa Kito nên nàng đã được chia sẻ sự sống của Người. Chớ gì mỗi người chúng ta cũng được như vậy!
LỜI KẾT: TƯƠNG QUAN GIỮA LỜI VÀ CHÚA THÁNH THẦN
Chúng ta tiếp tục suy niệm Tông Thư LỜI CHÚA / VERBUM DOMINI của Biển Đức XVI nói về “Lời Chúa trong Đời Sống và Sứ Mệnh của thế giới” qua mối tương quan giữa Lời và Chúa Thánh Thần, đoạn 15:
“Sau khi suy niệm lời quyết định sau cùng của Chúa nói với thế giới, chúng ta cần phải chú ý đến sự liên hệ giữa sứ mệnh của Chúa Thánh Thần và Lời Chúa. Trong thực tế, không thể hiểu mạc khải Kito giáo một cách chính xác khác với sự hoạt động của Chúa Thánh Thần. Điều này là do việc Thiên Chúa tự thông công luôn luôn bao gồm mối liên đới giữa Chúa Con và Chúa Thánh Thần mà Iranaeus thành Lyons ví như “hai bàn tay của Thiên Chúa Cha”. Chính Thánh Kinh cũng nói về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong lịch sử ơn cứu độ, đặc biệt trong đời sống của chúa Giesu: Người thụ thai bởi trinh nữ Maria do quyền năng của chúa Thánh Thần.(Mt 1:18; Lc1:35); khi bắt đầu sứ mệnh công khai, trên bờ sông Jordan, chúa Giesu nhìn thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống trên đầu mình dưới dạng chim bồ câu (Mt 3:16); với cùng tâm trạng đó, chúa Giesu tác động nói thành lời và vui mừng hớn hở (Lc 10:21); và trong Chúa Thánh Thần, Chúa Giesu tự hiến tế (Dt 9:14). Khi sứ mệnh của chúa Giesu kết thúc, theo thánh Gioan, chính Chúa Giesu đã nói rõ ràng là Chúa đi để gửi Chúa Thánh Thần xuống với những ai thuộc về Người (Ga 16:7). Khi Chúa Giesu sống lại, thân xác vẫn mang đầy những dấu vết cuộc khổ nạn, nhưng Người lại đổ ra tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần (Ga 20:22) để cho các môn đệ được chia phần với chính cuộc khổ nạn của Người (Ga 20:21). Chúa Thánh Thần đã phải dạy cho các môn đệ tất cả mọi điều và làm cho họ nhớ lại tất cả mọi điều Chúa Kito đã nói (Ga 14:26), bởi vì Người, Thánh Thần của Sự Thật (Ga 15:26) sẽ hướng dẫn các môn đệ đi vào sự thật (Ga 16:13). Sau cùng, trong công vụ tông đồ, chúng ta đọc thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống với 12 môn đệ lúc họ đang tụ họp cầu nguyện cùng mẹ Maria vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2:1-4), và buộc họ phải lãnh sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân.
Vậy, Lời Chúa được diễn tả thành lời của loài người nhờ có Chúa Thánh Thần hoạt động. Sứ mệnh của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần không thể tách rời nhau và tạo thành một ơn cứu độ duy nhất. Chúa Thánh Thần tác động lên ngôi Lời nhập thể trong bụng trinh nữ Maria cũng là cùng một Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúa Giesu xuyên suốt sứ mệnh của Người và hứa ban cho các môn đệ. Chúa Thánh Thần đã nói qua các ngôn sứ cũng là cùng một chúa Thánh Thần đã chống đỡ và linh hứng cho Giáo Hội trong công tác loan truyền Lời Chúa và giảng dạy của các tông đồ. Sau cùng, cũng chính chúa Thánh Thần đã linh hứng cho các tác giả Kinh Thánh.”
Fleming Island, Florida
Jan. 15, 2014
Fxavvy@aol.com
NTC