(do Bộ Giáo Dục Công Giáo phổ biến ngày 27/06/1989)
Nhân vị
Phẩm giá của nhân vị được xây dựng trên sự kiện rằng nó được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa và được nâng lên một cứu cánh siêu nhiên siêu vượt cuộc sống trần gian. Bởi thế, con người, với tư cách là hữu thể có trí tuệ và tự do, chủ thể của các quyền và nghĩa vụ, là nguyên tắc đầu tiên và, chúng ta có thể nói, là trung tâm và linh hồn của giáo huấn xã hội của Giáo Hội[71]. « Các tín hữu và những người không tin đều hầu như đồng ý cho rằng tất cả những gì tồn tại trên trái đất đều phải quy chiếu về con người như là trung tâm và là đỉnh cao của nó[72]. » Chính nguyên tắc này, trong tầm quan trọng nhân chủng học của nó, cấu thành nguồn mạch của các nguyên tắc khác, mà thuộc về phần chính của học thuyết xã hội. Con người-nhân vị là chủ thể và là trung tâm của xã hội, một xã hội với những cấu trúc, tổ chức và chức năng của nó có mục đích là tạo nên và thích ứng liên tục những điều kiện kinh tế và văn hóa cho phép nhiều người hết sức có thể phát triển các khả năng của họ và thỏa mãn những đòi hỏi hoàn thiện và hạnh phúc chính đáng của họ. Vì lý do này, Giáo Hội sẽ không bao giờ chán nản nhấn mạnh đến phẩm giá của nhân vị, chống lại mọi tình trạng nô lệ, khai thác bóc lột và những mưu mô gây thiệt hại cho con người, không chỉ trong lãnh vực chính trị và kinh tế, nhưng còn cả trong lãnh vực văn hóa, ý thức hệ và y học[73].
Công ích
Khi nói về những luật lệ và những nguyên tắc điều chỉnh đời sống xã hội, đầu tiên, cần phải xét đến « công ích ». Cho dầu công ích, « trong những khía cạnh thiết yếu và sâu xa hơn của nó, không thể được quan niệm bằng từ ngữ học thuyết và càng ít được xác định hơn trong các nội dung lịch sử của nó[82]», thế nhưng, nó có thể được mô tả như là « toàn bộ những điều kiện xã hội cho phép và giúp cho sự phát triển toàn diện của nhân vị nơi các hữu thể nhân linh[83]». Bởi thế, cho dầu công ích này trổi vượt hơn lợi ích riêng tư, nhưng nó không thể tách rời khỏi thiện ích của nhân vị, mà bó buộc công quyền nhìn nhận, tôn trọng, tổ chức, bảo vệ và thăng tiến nhân quyền và cũng như tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện các nghĩa vụ riêng của mỗi người. Do đó, việc vận dụng công ích có thể được xem như là lý do hiện hữu của công quyền, mà bó buộc thực hiện công ích vì lợi ích của tất cả mọi người và của toàn thể con người – được xem xét trong chiều kích trần thế-thế tục và siêu việt của nó – trong sự tôn trọng một thứ bậc đúng đắn các giá trị và những định đề của các hoàn cảnh lịch sử[84].
Do đó, khi xem công ích như là một giá trị phục vụ và tổ chức đời sống xã hội và tổ chức một trật tự đời sống chung mới, Giáo Hội đang làm nổi bật ý nghĩa nhân bản của nó và khả năng thúc đẩy các cấu trúc xã hội trong tính toàn diện của chúng và trong những lãnh vực riêng biệt của chúng, và Giáo Hội kích thích những biến đổi sâu xa theo tiêu chí công bằng xã hội.
Nguyên tắc liên đới
Liên đới và phụ đới là hai nguyên tắc quan trọng khác, điều chỉnh đời sống xã hội. Theo nguyên tắc liên đới, mỗi người, với tư cách là thành phần của xã hội, được liên kết cách bền chặt với số phận của chính xã hội và, trong sức mạnh của Tin Mừng, với số phận ơn cứu độ của tất cả mọi người. Trong thông điệp Mối Bận Tâm Vấn Đề Xã Hội, đức Giáo Hoàng đã đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nguyên tắc này, xem nó là đức tính nhân bản và kitô giáo[85]. Những đòi hỏi luân lý của nguyên tắc liên đới đòi hỏi rằng mọi người, các nhóm và các cộng đoàn địa phương, các hiệp hội và các tổ chức, các quốc gia và các châu lục, tham gia vào việc quản lý tất cả các sinh hoạt kinh tế, chính trị và văn hóa, bằng cách vượt quá mọi quan niệm luân lý thuần túy cá nhân chủ nghĩa[86].
Nguyên tắc phụ đới
Nguyên tắc phụ đới, tức nguyên tắc bảo vệ nhân vị, các cộng đoàn địa phương và các « cơ cấu trung gian » khỏi mối hiểm nguy đánh mất sự tự trị chính đáng của họ, phải được xem như là một nguyên tắc bổ túc cho nguyên tắc liên đới. Giáo Hội chú ý đến việc áp dụng nguyên tắc này vì chính phẩm giá của nhân vị, vì sự tôn trọng những gì là nhân bản hơn trong việc tổ chức đời sống xã hội[87] và vì sự bảo vệ các quyền của các dân tộc ở trong các mối quan hệ giữa các xã hội đặc thù và xã hội phổ quát.
Trích từ bản dịch tiếng Pháp “NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHO VIỆC NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY HỌC THUYẾT XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI TRONG VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC” của Lm. Võ Xuân Tiến
Chú thích:
71. VAT. II, Gaudium et Spes, 17.
72. Ibid., 12. Lời khẳng định này của Gaudium et spes phải được hiểu bằng việc lưu tâm rằng sự sắp xếp trái đất đối với con người chỉ có giá trị, đối với đức tin Kitô giáo, ở trong giả định sự tùy thuộc của con người đối với Thiên Chúa, đến nỗi con người xây dựng trái đất trong sự tuân phục chuẩn mực của Thiên Chúa chứ không phá hủy nó nhân danh sự ích kỷ của mình.
73. Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Libertatis conscientia sur la liberté chrétienne et la libération (22/3/1986), 73: A.A.S. 79 (1987) 586.
82. Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in terris (11/4/1963): A.A.S. 55 (1963) 272.
84. Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in terris (11/4/1961): A.A.S. 55 (1963) 272.
85. Gioan-Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis (30/12/1987), 39-40: A.A.S. 80 (1988) 566-569.
86. VAT. II, Gaudium et spes, 30-32; Bộ Giáo Lý Đức Tin, Huấn thị Libertatis conscientia sur la liberté chrétienne et la libération (22/3/1986), 73: A.A.S. 79 (1987) 586; Gioan-Phaolô II, Discours Je désire à la 68ème Session de la Conférence Internationale du travail (15/6/1982): A.A.S. 74 (1982) 992 ss.
87. Piô XI, Thông điệp Quadragesimo anno (15 Mai 1931): A.A.S. 23 (1931) 203; Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in terris (11 Avril 1963): A.A.S. 55 (1963) 294; Gioan-Phaolô II, Thông điệp Laborem exercens (14/9/1981): A.A.S. 73 (1981) 616; Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Libertatis conscientia sur la liberté chrétienne et la libération (22/3/1986), 73: A.A.S. 79 (1987) 586.