Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

ThánhVịnhĐápCa (NgọcCẩn)

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bernard Nguyên-Đăng
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm BÙI NINH, Gp Bùi Chu
  Lm John Minh
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa BMT
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  M. Hoàng Thị Thùy Trang
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Ngọc Cẩn
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  GH. Đồng Trách Nhiệm
TỔ CHỨC CÔNG QUYỀN TRONG TƯ TƯỞNG KITÔ GIÁO.

 

 NGUYỄN HỌC TẬP

 

Con người, trung tâm điểm của tổ chức quyền lực Quốc Gia. 

Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội đặt con người ở địa vị tối thượng của mọi tổ chức quyền lực Quốc Gia. Mỗi định chế xã hội chính đáng phải đặc tâm lưu ý đến con người và nhằm tạo được lợi ích cho con người, con người như cá nhân hay con người như thành phần cộng đồng xã hội, 

Nhưng muốn đạt đến mục đích vừa kể, những ai suy tư và thiết định định chế xã hội cho con người,

   - phải biết con người là ai

   - và hạnh phúc của con người là gì.

Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa ( Gen 1, 26-27).

Con người là con Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên Chúa bằng Cha ( Mt 6,9 ).

Con người có đinh mệnh là được tham dự vào bản tính Thiên Chúa, tham dự vào chính đời sống mà Thiên Chúa đang sống ( 2 Pt 1,4)

Phẩm giá của con người là vậy, bởi đó không ai được khinh rẻ, đàn áp, bốc lột, tha hoá, đối đải với con người hèn hạ như súc vật. 

Bởi đó một định chế xã hội có quan niệm sai lầm hay khiếm khuyết về con người không thể thực hiện gì khác hơn là tai hại cho chính con người

Lý trí cho chúng ta biết khá nhiều điều về con người, nhưng không có khả năng trả lời xác quyết những câu hỏi căn bản về con người, ví dụ như

   - nguồn gốc của con người từ đâu

   - và định mệnh nào con người gặp phải sau khi chết.

Điều thiếu sót về tính cách chắc chắn và hoàn hảo mà lý trí chúng ta không có được, chúng ta được Lời Chúa nói cho chúng ta, và chúng ta biết được trong đức tin, sửa đổi và soi sáng những gì không chắc chắn và còn u tối mà lý trí không có khả năng đưa ra những lời giải đáp thoả đáng.

Qua những gì vừa kể, Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội

   - không phải chỉ là một định chế xã hội,

   - mà là những lời huấn dạy duy nhứt cho định chế xã hội, bởi vì nhờ Đức Tin, là định chế duy nhứt thiết thực biết được con người trong thực thể và trong định mệnh của con người.

 

Cộng đồng xã hội cho con người.

Quyền tự nhiên, từ luôn luôn được Giáo Hội nhận biết và bênh vực, xác định điều tốt lành cho con người, cùng đích của mỗi lề luật xã hội.. 

Hình thức xã hội tự nhiên đầu tiên, được thiết lập nên bởi sự hiệp nhứt của một người nam và một người nữ trong hôn nhân. Đó là gia đình.

Gia đình được hưởng mọi quyền của con người.  

Khi nhiều con người hay nhiều gia đình cùng hợp nhau lại trên một lãnh thổ, theo một định chế, nhằm đạt được lợi ích của cả cộng đồng ( hay công ích ), chúng ta có được một xã hội hay một cộng đồng nhân loại, trong đó

   - các quyền của mỗi cá nhân

   - và của mỗi gia đình thành viên đều phải được tôn trọng

Nhưng con người có quyền ưu tiên hay cộng đồng?

Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội trả lời rằng ưu tiên là con người,

   - bởi vì hạnh phúc của mỗi con người là cùng đích,

   - trong khi đó thì cộng đồng chỉ là phương tiện để giúp cho con người đạt được hạnh phúc của chính mình.

Bởi đó Công Quyền chỉ có mục đích duy nhứt là giúp mọi con người cá nhân, thành viên của Công Đồng đạt được mục đich cá nhân của mình.

Điều đó phải xảy ra bằng cách thực hiện

   - nguyên tắc Liên Đới Hổ Tương

   - và nguyên tắc Phụ Túc Bảo Trợ.

   * Nguyên tắc Liên Đới Hổ Tương  đòi buộc Công Quyền phải tạo được các điều kiện thiết thực làm cho mọi người có thể thực hiện được ơn gọi của chính mình trong lãnh vực kinh tế, văn hoá, tôn giáo. Các điều kiện hiện thực đó, cần thiết cho việc phát triển các cá nhân con người, đó là công ích. bởi vì trên thực tế là lợi ích chung cho tất cả mọi người là thành viên của công đồng. 

   * Nguyên tắc Phụ Túc Bảo Trợ đòi buộc Công Quyền không được làm những gì mà cá nhân riêng rẻ với sáng kiến của mình có thể làm được.

Công Quyền chỉ can thiệp khi nào các cá nhân, vì nhiều lý do khác nhau, tự mình không thể thực hiện được.

Theo Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, các con người cá nhân, trong lãnh vực và được công ích trợ lực, có quyền có sáng kiến trong kinh tế, văn hoá, phục vụ và tôn giáo ( học đường, bệnh  viện, sản xuất và buôn bán các sản phẩm tiêu dùng...). Trong khi đó, thì Công Quyền chỉ có bổn phận

   - " kích thích, định hướng, phối hợp" các hoạt động của tư nhân,

   - và cả " bổ khuyết và hoàn hào hóa" ở đâu và lúc nào cần thiết, khi tư nhân hay các tổ chức xã hội trung gian không đủ sức ( Mater et Magistra, n. 39).

 

Của cải vật chất là cho con người.

Trên thế giới có cả một khối lượng của cải vật chất không lồ .

Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội xác nhận rằng tất cả những của cải đó được Chúa dựng nên cho mọi người, không ai bị loại trừ.

Như vậy mỗi người đều có quyền dùng các của cải đó cho mình với chỉ bị hạn chế trong một lằn mức giới hạn: đó là không được vi phạm cũng chính quyền được dùng của tất cả mọi người khác, ngang hàng với mình.

Chối bỏ một cách cưỡng bức quyền tư hữu đó đối với con người ( như những gì đã xảy ra trong chế độ Cộng Sản ),  là một điều bất công chống lại con người, bởi vì điều đó cũng là tước bỏ đi điều mà con người cần có để sống và để đạt được cùng đích của mình. 

Tuy nhiên, sau khi xác nhận mỗi người đều có quyền tư hữu, trên của cải vật chất, Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội tuyên bố rằng, về vấn đề, cần phải tôn trọng hai điều kiện:

   a) Phân phát công bằng của cải vật chất đối với tất cả mọi người.

Về phương diện thuần lý, của cải vật chất nên được phân chia đồng đẳng giữa mọi người.

Nhưng con người là những con người tự do, không có cách hành xử đồng nhứt rập khuôn như nhau, bởi đó điều không thê tránh được là có những con người có tài năng hơn, chuyên cần làm việc và tiêu xài cần kiệm hơn, nên họ chiếm hữu được nhiều hơn người khác và nhiều người khác chiếm hữu được ít hơn.

Giáo Hội chấp nhận sự khác biệt đó, miễn sao dù khác biệt, nhưng vẫn dựa trên " công bằng ", tức là

   - không làm cho ai thiếu hụt những gì thiết yếu để sống được

   - và đạt được mục đích của chính mình.

Đó là điều có thể chấp nhận được trong xã hội có những người với việc làm chuyên cần gắng công gắng sức và dùng trí nảo của mình có thể tăng trưởng thêm và gìn giữ bảo toàn gia tài của mình; trong khi đó thì có những người khác không dùng đủ tài năng và sức lực, có thể bị giảm thiểu của cải của mình, miễn là không đến dưới mức độ cần thiết cho đời sống của mình và gia đình mình.

Do đó việc phân phát của cải,

   - mặc dầu không đồng đẳng,

   - nhưng luôn luôn phải công bình, nghĩa là chính đáng theo công lý,

miễn là quyền của những người đã ra công gắng sức làm việc chiếm hữu được nhiều hơn, cũng như quyền của những ai mặc dầu có được ít hơn, nhưng vẫn có đủ phương tiện cần thiết dể sống và phát triển con người của mình, xứng đáng với phẩm giá con người.

Trái lại đối với Giáo Hội là điều bất công và không chính đáng, việc phân chia của cải vật chất hiện nay giữa các dân tộc khác nhau trên thế giới, giữa các Quốc Gia giàu có ( Âu Châu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và Úc Châu) đang chiếm hữu gần như 80% mức giàu có trên thế giới, mặc dầu tổng số dân chúng các Quốc Gia vừa kể chưa đến được 28% dân số thế giới. 

   b) " vai trò xã hội " của quyền tư hữu:  ai có của cải nhiều hơn, phần dư thừa của mình, nên ban tặng, bố thí cho những ai không có đủ.

Như Thông Điệp Laborem Exercens đã xác nhận: 

   - Quyền tư hữu tùy thuộc vào quyền được dùng cho công ích, vào định chế phổ quát của của cải ".  

Nói cách khác, quyền tư hữu không phải là quyền ưu tiên, mà là quyền đến sau quyền của tất cả mọi người đều có được phần của cải cần thiết để sống và triển nở con người của mình.

Phương thức làm cho của cải giàu có dư thừa của mình vào lợi ích cho cộng đồng,

   - trong một vài trường hợp  được để tự do cho sáng kiến cá nhân,

   - trong những trường hợp khác bị luật pháp Quốc Gia bắt buộc bằng cách đánh thuế theo phần trăm cao hơn ( hay cả theo phương thức lủy tiến ) đối với những ai có của cải nhiều hơn, nhưng không bao giờ Công Quyền nhằm triệt hạ, băng hoại, vô sản hoá, bần cố nông bần tiện như trong một chế độ bất hạnh nào đó.

Hành xử như vừa kể, Công Quyền làm cho một phần của cải của những ai giàu có dư thừa tuôn chảy vào đáp ứng lại mức túng thiếu cần thiết của những ai có nhu cầu.

Đánh thuế theo lủy tiến, Công Quyền không những không làm lụng bại sáng kiến và chuyên cần của những ai có tài năng trong xã hội, mà còn khuyến khích gia tăng thêm: người giàu có thêm, bị đánh thuế lủy tiến càng nặng hơn, nhưng đồng thời mức giàu có cũng gia tăng thêm ( lủy tiến không có nghĩa là chặt đầu, chặt đuôi, biến thành mạt rệp, vô sản, bần cố nông, hy vọng chúng ta sẽ có dịp trở lại với đề tài ).

Như vậy với mức đánh thuế theo phần trăm, nhứt là theo phương thức lủy tiến, Công Quyền có thể tiết kiệm được công qủy để giúp người nghèo, cũng như đánh thuế nhẹ tay hơn trên thành phần không có mấy dư thừa.

Làm khác hơn, san bằng mạt rệp, vô sản hóa, bần cố nông phá sản là cách hành xử của Công Quyền để giết chết sáng kiến cá nhân là suối nguồn của sự phát triển giàu có cho cộng đồng Quốc Gia ( cfr. Chủ thể tính và người nghèo trong Thông Điệp Centesimus annus).

Ngoài ra cơ quan Công Quyền cần thận trọng và công bình trong việc đánh thuế, cũng như không được xử dụng công quỷ vào những việc không chính đáng.

 

Con người và việc làm. 

Việc làm dưới bất cứ hình thức khách thể nào, tay chân hay trí thức, việc làm có phẩm giá của mình thoát xuất từ người làm việc là một con người.

Trong việc làm của con người, có ba yếu tố chính yếu: các yếu tố vật chất, con người và việc làm, liên hệ nhau theo một bậc thang giá trị chính xác:

   1 - Con ngưòi có giá trị hơn các của cải vật chất,

   2 - Con người có giá trị hơn việc làm của mình,

   3 - Việc làm có giá trị hơn của cải vật chất, và

   4 - Việc làm và sản phẩm vật chất được dùng để phục vụ con người.  

Hai quan niệm sai trái đối ngược nhau, đó là quan niệm tư bản chủ nghĩa cứng rắn của thế kỷ vừa qua, coi việc làm của con người như đơn sơ chỉ là một món hàng và người làm việc đơn sơ chỉ là người sản xuất ra món hàng việc làm.

Kế đến là cộng sản chủ nghĩa -  núp bóng dưới bức màn xã hội sai lầm- đặt con người vào hạng chót của bậc thang giá trị - nhân danh nghĩa " chuyên chế vô sản ", đối xử với con người không thua gì súc vật.

Các kết quả thảm đạm của quan  niệm sai lầm vừa kể, ngày nay ai chúng ta đang có trước mắt, đang tạo bất công và những phản ứng bạo lực, gây nên không biết bao nhiêu đau khổ cho nhân loai.

Trong các thể chế dân chủ tây phương, tư tưởng Kitô giáo về phẩm giá con người và về giá trị của việc làm con người đều được khắp đó đây chấp nhận, đang tạo được lợi ích cao cả về hòa bình xã hội mà ai trong chúng ta cũng thấy được. 

 

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!