Thật là cần thiết để thiết lập vài nguyên tắc cho việc ảnh hưởng con trẻ. Bố mẹ cần sự cố vấn vì mẫu mực sống của họ không bảo đảm sự phát triển đứa trẻ. Ở đây không bàn thảo chi tiết về những phương cách giáo dục gia đình. Một ít nguyên tắc trong chương Cùng Chung Sống cống hiến một loạt phương pháp thích hợp. Nguyên tắc đầu tiên là hiểu biết và kính trọng phẩm giá con người. Trong việc ứng phó với con trẻ, người lớn phải kính trọng phẩm giá của đứa trẻ cũng như phẩm giá của chính mình. Quên phẩm giá riêng của một người có nghĩa là ban cho. Quên phẩm giá của đứa trẻ có nghĩa là đàn áp. Cả hai đều tiêu hủy sự cộng tác. Cả hai thiết lập những bạo chúa và nô lệ. Nguyên tắc thứ hai là không chống mà cũng không nhường. Vì mục đích của giáo dục gia đình, người ta phải thêm những xác tín: thuyết phục trẻ và khuyến khích trẻ. Và đây là ba nguyên tắc: không giao chiến, tuân giữ trật tự, và khích lệ. Không thể có cái nầy mà không có hai cái kia. Nếu giao chiến, chúng ta không bao giờ có thể làm cho đứa trẻ chấp nhận trật tự và sẽ làm đứa trẻ thất vọng. Không nhấn mạnh đứa trẻ phải giữ trật tự sẽ đưa đến chiến tranh. Một đứa trẻ không sống phù hợp với luật lệ, bắt buộc bố mẹ phải phạt nó.
Đối với nhiều cha mẹ, không thể tin rằng con cái có thể được nuôi dưỡng lớn lên mà không dùng sức mạnh. Quan niệm không đánh là làm hư trẻ là một quan niệm không tin vào bản tính con người, là bản tính được xem là thuần thục nhưng không bao giờ được thực hiện với tính cách xã hội mà không có cưỡng chế. Những bố mẹ như thế cần được thuyết phục rằng khi họ phải dùng đến phương cách đánh đập trẻ là lúc chính họ là những người thua cuộc. Đứa trẻ có nhiều điều lợi trong hành động của nó: nó biết cách điều khiển bố mẹ tốt hơn bố mẹ biết cách điều khiển nó, và với sự tận dụng hết thời gian để quan sát môi trường, nó biết rõ từng điểm dễ bị làm tổn thương của bố mẹ. Nó giàu tưởng tượng và sáng chế hàng trăm cách giao chiến trong khi người lớn chỉ quanh quẩn ba hoặc bốn cách không hiệu quả mấy. Con trẻ biết chính xác cách thực hành phương cách của nó, và bố mẹ dẫu có giao chiến cũng chỉ nhường nhịn.
Rõ ràng là giao chiến thì vô ích. Mọi phương cách như nhục mạ, la hét, quở trách, và phát đít chỉ thành công trong một lúc nếu chúng có hiệu quả. Đứa trẻ đánh trả lại ở cơ hội đầu tiên, và sẵn sàng đáp trả với mỗi chiến thắng của bố mẹ. Dĩ nhiên, sự bất phục tùng là một kết quả đương nhiên. Nhưng ở đâu có sự liên hệ thân mật với sự hiểu biết thiết thực giữa bố mẹ và con cái thì việc giải quyết những điều đó quá là dễ dàng. Mỗi đứa trẻ đều nhạy cảm đối với sự tử tế cũng như sự cứng rắn của bố mẹ. Những đứa trẻ không đáp lại là những đứa đã được dạy qua kinh nghiệm rằng chỉ có sức mạnh là quan trọng.
Quỳnh Liên đang chơi với bạn bè ở sân trước thì bà mẹ gọi: “Liên ơi! Đến đây!” Cô bé vẫn tiếp tục chơi, không tỏ dấu gì đã nghe thấy. Bà mẹ gọi nữa, gọi nữa. Cô bé vẫn không đáp trả. Một đứa bạn đi ngang qua, nghe tiếng gọi nhiều lần, mới đến gần và hỏi nó có nghe tiếng mẹ gọi không? Cô bé đáp “Có” nhưng rồi lại tiếp tục chơi. Cô bạn hơi giận dữ nói: “Vậy tại sao mầy không về nhà?” Quỳnh Liên trả lời: “Ơ, tao còn có giờ. Mẹ tao chưa la.”
Nhiều bố mẹ không nhận thấy sự quan trọng của trật tự. Họ yêu trẻ cách chân thành. Họ muốn cứu đứa trẻ khỏi thất vọng và thương đau. Vì muốn đời sống con cái mình được hạnh phúc nên họ loại bỏ qui luật của trật tự. Ước muốn của đứa trẻ là lệnh truyền của họ. Họ hy vọng rằng từ đây về sau con cái mình sẽ học hiểu biết hơn và nhạy cảm hơn. Họ sai lầm biết bao! Một khi đứa trẻ nhận biết rằng ước muốn của nó là toàn năng, nó sẽ coi bất cứ sự từ chối nào từ bố mẹ hoặc thầy cô như một sự bất công, như một sự tước khỏi nó những đặc ân được nó xem như là quyền tự nhiên của nó và sẽ cắt nghĩa như là dấu hiệu của sự từ khước và nhục mạ. Bảo vệ quá đáng cũng như ban cho không bao giờ khắc phục được đứa trẻ, không bao giờ làm cho nó biết cộng tác và dũng cảm. Họ tước đoạt nó khỏi việc vui hưởng giữ gìn trật tự, khỏi việc cảm nghiệm sức mạnh riêng của nó trong việc tự vươn lên, và cảm nghiệm sự hữu ích của chính mình đối với người khác. Thay vì ngăn ngừa những cảm nghiệm không vừa ý, sự ban cho bỏ rơi đứa trẻ ngày càng thêm đau khổ và tồi tệ hơn. Thay vì giúp nó, điều đó càng làm nguy hiểm hơn, và rồi sự đụng độ và chiến tranh trở thành điều không thể tránh khỏi.
Sự ban cho thường đặt căn bản trên ý tưởng sai lầm về tự do. Cho con trẻ tự do và tự biểu lộ là cần thiết, nhưng tự do mà không có trật tự thì không thể. Trái lại không có trật tự nào lâu bền mà không có tự do. Trong một vài văn hóa, ý tưởng về trật tự được đề cao thái quá đến nỗi con trẻ bị tước đoạt mất sự tự diễn tả. Luật lệ nghiêm khắc và sự tuân phục ngay tức khắc là mục đích chính của việc giáo dục của họ. Kết quả thì giống với kết quả được sản xuất bỡi sự đàn áp và nhục mạ. Sự cứng nhắc, sức mạnh, và thành công có thể được hoàn thành trong cách đó, nhưng là sự liên hệ của con người đau khổ. Trái lại, tương quan nhân bản thì gặp nhiều nguy hiểm bỡi sự thường xuyên hiểu lầm về sự tự do. Tự do thì không phải là làm cái gì mình muốn vì tự do như thế có nghĩa là áp đặt lên người khác cũng chính những đặc quyền mà chúng ta từ chối cho họ. Nếu mỗi người hành động như họ thích, coi thường những ước muốn của đồng bạn, bấy giờ không ai có thể hưởng được tự do mà chỉ hưởng những kết quả của tình trạng vô trật tự. Tự do và đặc quyền dành cho một người thì không thể được gọi là tự do. Đó là một sự độc tài và bạo chúa. Dưới chiêu bài ban cho tự do, bố mẹ làm cho con cái thành những bạo chúa bất hạnh, những người không thể nào phù hợp với người khác và cảm thấy bị khước từ bỡi mọi người.
Nhiều con trẻ lớn lên với một quan niệm sai lầm về trật tự. Đối với chúng, trật tự là cái chúng không muốn thực hiện. Chúng phải học nhận biết rằng trật tự thì có lợi cho chúng. Không có gì khó để dạy cho chúng điều nầy. Khi một đứa trẻ từ chối phục tùng tập tục là cái điều khiển đời sống gia đình, chúng ta có thể giúp nó hiểu rõ ràng hơn trật tự có nghĩa là gì? Có nhiều cách để gây ấn tượng cho đứa trẻ với ý nghĩa thật sự của trật tự. Chẳng hạn, nó có thể đồng ý rằng thật là tốt đẹp nếu mỗi phần tử của gia đình thực hiện. Rất sớm, đứa trẻ sẽ khám phá ra rằng nó sẽ chiếm được rất ít và sẽ mất rất nhiều nếu cha mẹ cũng chỉ làm những điều họ thích nhất ở bất cứ lúc nào được phép. Không có bữa ăn được chuẩn bị, không có giường chiếu được thu xếp, không có áo quần sạch sẽ. Rõ ràng trật tự phục vụ không chỉ ích lợi của bất cứ một người nào nhưng là của tất cả chung nhau. Sự tự do chỉ là sự tự do hành động cách độc lập bao lâu một người không dẫm lên sự tự do của một người nào khác.
Và bây giờ qui luật thứ ba và quan trọng nhất là đứa trẻ cần sự khích lệ ngay tức khắc. Nó cần sự khích lệ như cây cần nước. Trái lại, phương cách nuôi dưỡng con cái của chúng ta thì đầy sự thiếu khích lệ. Ban cho và đàn áp tạo nên vô số những kinh nghiệm thiếu khích lệ. Bố mẹ xem ra quá nhúc nhát. Họ thấy nguy hiểm ở mọi nơi. Họ thấy mình giống như con họ, họ không tin vào chính mình, họ khó tin rằng đứa trẻ có thể lo cho chính nó. Thay vì nhận thấy khả năng của một đứa trẻ, họ so sánh hình vóc và thể lực với chính họ và kết luận rằng nó phải kém hơn họ biết bao nhiêu lần. Thật ra đứa trẻ nói chung có khả năng thể lý và tinh thần nhiều hơn bố mẹ tin nó có. Sự nghi ngờ cái khả thể của đứa trẻ được mang từ thế hệ nầy sang thế hệ khác, là một trong những lý do tại sao người lớn bỏ nhiều trong số những khả năng của họ không làm phát triển, không bao giờ đạt tới kết quả như khả năng của họ có thể.
Bất cứ tiến trình giáo dục nào cũng có thể được đánh giá theo mực độ của sự khuyến khích. Cái gì làm tăng tinh thần can đảm của đứa trẻ đều có ích. Bất cứ cái gì làm xuống tinh thần đều có hại. Không có trẻ nào là thật sự xấu. Mọi đứa trẻ đều thích nên tốt, ước ao được thành công, yêu chuộng sự tử tế. Nếu mất hy vọng, mất sự tự tin, bấy giờ nó sẽ hành động sai lầm. Kỷ thuật của khuyến khích thì chưa được nhận thức đầy đủ. Rất ít người có chương trình khuyến khích và ngay cả những người nầy cũng không biết làm cách nào. Một vài người cố gắng ngọt ngào. Trẻ con ghét điều đó biết bao vì sự ca ngợi không chân thành không thể khích lệ ai. Sự ca tụng không đáng được thì hoặc là vô nghĩa hoặc là dối trá. Ngay cả sự ngưỡng phục được diễn tả cách chân thành có thể làm đứa bé mất can đảm, mặc dầu nó thích, nếu nó cảm thấy rằng nó không thể thõa đáp sự quí mến cao cả đó.
Hai yếu tố nầy xem ra là thiết yếu cho sự khích lệ: chân thành và nhận thấy nhu cầu cá nhân của đứa trẻ. Mỗi đứa trẻ đều có khả năng đáng được ca tụng và mỗi đứa đều có những vết thương đau đáng được xoa dịu. Tuy nhiên, nếu không có niềm tin vào đứa trẻ, không ai có thể đặt vào trong nó một ý kiến tốt đẹp về chính nó. Tự tin, nhận biết sức mạnh của những khả năng riêng mình là can đảm. Bất cứ ai có thể cung cấp điều đó có thể làm tăng hiệu quả và làm dễ dàng hơn những sự thích nghi xã hội cần thiết với bất cứ ai mà nó gặp, đặc biệt với đứa trẻ đang khát mong loại giúp đỡ nầy.
Sự khích lệ chỉ có trong bầu không khí thân thiện, không thể có nơi sự giận dữ chế ngự. Khi chồng và vợ bất đồng, khi bố mẹ và con cái chống đối nhau, mỗi bên cố gắng làm mất tinh thần đối thủ của mình trong lúc đó. Phương pháp thì rất nhiều và rất tinh vi mà qua đó bố mẹ bóp chết những khả năng khác biệt và tự nhiên của con trẻ, làm thất đảm những cố gắng của nó, và ngăn cản sự phát triển cảm giác tin tưởng vào giá trị và sức sáng tạo của nó.
Mỗi lỗi lầm và sai trái của đứa trẻ phản chiếu sự thiếu khích lệ mà nó phải hứng chịu trong gia đình. Nếu không, có lẽ nó đã tìm ra một câu trả lời tốt hơn cho vấn đề của nó. Một đứa trẻ được lớn lên trong bầu khí đầy yêu thương và cảm thông thì sốt sắng muốn chia xẻ. Được nuôi dưỡng trong sự thân thiện và ích lợi thật, đứa trẻ phát triển cách hạnh phúc và mau mắn đáp trả những đòi hỏi của xã hội. Nhưng có biết bao bố mẹ và thầy cô, chính họ là nguồn sản xuất bầu khí cạnh tranh và đụng độ, họ không cung cấp một sự hướng dẫn thích hợp cho đứa trẻ. Họ quên mất cảm giác đáng sợ của bất an, của chia lìa và không được yêu mà chính họ đã từng cảm nghiệm. Họ ít chịu học hỏi từ tâm lý trẻ. Không chịu khám phá những khả thể của đứa trẻ, họ chống điều nó làm và ngăn cản nó. Họ đã làm hại một cá tính. Họ không hiểu tại sao đứa trẻ cảm thấy mình bị lạc lõng. Họ hoàn toàn không ý thức về cái tại sao đứa trẻ hành xử một cách bướng bỉnh như vậy?
Lm. Lê văn Quảng