Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Gs. Nguyễn Văn Thành
  Mục Lục
Chương I: Hội chứng tự kỷ
Chương II : Những sinh hoạt chính yếu của con người
Chương III : Trí Thông Minh Xã Hội
Chương IV : Những Cơ Sở Thần Kinh của Trí Thông Minh Xã Hội
Chương V: Bẩm Sinh và Môi Trường Giáo Dục
Chương VI : Hai bộ mặt « Bóng tối và Ánh sáng »…trong mỗi quan hệ đối tác xã hội
Lời Nói Cuối : Tư Duy Cấu Trúc trong lãnh vực Giáo dục
Phụ Trương I : Xây dựng Quan Hệ Đồng Cảm và Bao Dung với trẻ em có nguy cơ Tự Kỷ
Phụ Trương II: Những bài học từ dễ đến khó Trong Chương Trình CAN THIỆP SỚM
Phụ Trương III: Phát Huy « Tư Duy không lời » nơi trẻ em có nguy cơ Tự Kỷ…
Phụ Trương IV: Để giúp trẻ em có « nguy cơ Tự Kỷ » sử dụng và phát huy Ngôn Ngữ
Phụ trương V : Bốn con “Yêu Tinh”… Trên mọi nẻo đường của Đất Nước
Phụ Trương VI : Xây dựng lòng tự tin nơi con cái dưới 6 tuổi
Phụ Trương VII : Tâm sự của Ông Lái Đò…
Thay lời kết luận

CÙNG MỘT TÁC GIẢ

Lắng Nghe, Một Quà Tặng Vô Giá !

Lòng Tự Tin - Hành trang cho ngàn năm thứ ba

Khung trời mở rộng bằng con đường thuyên giải

Bản câu hỏi về tính tình

Phát Huy Quan Hệ Xã Hội Trong Vấn Đề Giáo Dục Trẻ Em Tự Kỷ

Trong Đức Kitô

Nguy cơ Tự Kỷ (nơi trẻ em từ 0 đến 7 tuổi)

Trẻ Em Tự Bế (Autistic Children) - Phương thức giáo dục và dạy dỗ

Quan hệ mẹ con : Bài học đầu tiên của cuộc sống

Phương Pháp Tâm Vận Động

Trẻ Em Chậm Phát Triển

Đồng Cảm Để Đồng Hành

Lắng Nghe Chúa Thánh Thần

Đối Thoại Một quê hương Tình Người

Nguyễn Trãi, Vạn Xuân và Đại Việt

Con Đường Bao Dung

Huyền Sử Việt Nam

Tư Duy và Hành Động

PHÁT HUY QUAN HỆ XÃ HỘI TRONG VẤN ĐỀ GIÁO DỤC TRẺ EM TỰ KỶ
       NGUYỄN Văn Thành 

Khóa Đào Tạo Năm III

Mùa Hè 2007

 

Lời Mở Đường :

Ưu Tiên Số Một của chúng ta là gì ? 

Nhằm trình bày và khảo sát về Hội Chứng Tự Kỷ, tôi đã được lần lượt xuất bản ba tác phẩm khác nhau :

Cuốn sách thứ nhất mang tựa đề « Trẻ Em Tự Kỷ », có mặt lần đầu tiên vào năm 2005, trên các tờ báo thông tin vi tính, ở trong và ngoài Nước. Một cách đặc biệt trong tác phẩm nầy, tôi đã khảo sát 5 triệu chứng, nhằm giúp đỡ cha mẹ và những những người có liên hệ xa gần, trong vai trò phát hiện những trẻ em mang hội chứng tự kỷ, từ những giây phút đầu tiên, khi một vài rối loạn vừa mới thoáng lộ diện.

Càng phát hiện sớm, như tôi đã nhấn mạnh, chúng ta càng hội tụ nhiều cơ may, khả dĩ giúp đỡ những trẻ em nầy mau chóng thích nghi với đời sống và môi trường xã hội.

Hẳn thực, từ 0 đến 6 tuổi, trẻ em đang còn ở trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển, trên mọi bình diện, thuộc đời sống cơ thể cũng như trong đời sống xã hội, từ những sinh hoạt vui đùa với bạn bè cùng trang lứa, đến những qui luật cần tuân hành ở môi trường học đường…Cũng trong thời gian và lứa tuổi nầy, hệ thần kinh trung ương hay là não bộ, với ba giai tầng khác nhau là Thân Não, Hệ Viền và Tân Vỏ Não, còn ở trong tình trạng mềm dẽo, dễ uốn nắn, chuyển hóa và điều chỉnh. Thậm chí những chương trình mang tên là bẩm sinh hay di truyền còn tùy thuộc vào khả năng tác động của môi trường giáo dục gia đình. Những quan hệ của cha mẹ, giống như nước tưới, đất màu hay là ánh sáng mặt trời, có thể mở ra hai con đường : làm cho hạt giống bẩm sinh phát triển thành cây lớn mạnh, hay là tàn lụi ung thối, vì không hội tụ đầy đủ điều kiện dưỡng sinh thuận lợi.

Cuốn sách thứ hai, xuất bản vào năm 2006, với tựa đề « Nguy Cơ Tự Kỷ , từ 0 đến 7 tuổi », đề xuất hai mục tiêu rõ rệt :

Thứ nhất, để can thiệp một cách khoa học và hữu hiệu, nghĩa là có khả năng mang lại những thành quả cụ thể và khách quan, cho trẻ em đang có những rối loạn thuộc hội chứng tự kỷ, chúng ta cần cưu mang trong nội tâm, thái độ sáng suốt và tỉnh thức. Người làm cha mẹ, các giáo viên cũng như chuyên viên thuộc nhiều ngành nghề khác nhau, không thể « chầm chày may rủi », nhắm mắt đưa chân, áp dụng một cách máy móc tự động những chương trình có sẵn trong tầm tay, hay là những phương pháp trừng trị và ức chế theo kiểu « xưa bày nay làm ».

Tư duy cấu trúc, trái lại, đề nghị chúng ta hãy ý thức một cách sáng suốt : Tôi đang ở đâu ? Bắt đầu từ khởi điểm nào ? Đi đến đâu ? Đi con đường nào ? Vì lý do gì ? Đi với phương tiện nào ? Đi theo những bước tiến lên từ dễ đến khó như thế nào ? Sau một thời gian tác động hay là can thiệp, chúng ta cần làm gì, nhằm đánh giá công việc và kết quả ? Khi nhận thấy mình đã đi sai đường, chúng ta sẽ vận dụng những biện pháp chuyển hóa như thế nào ?

Một câu hỏi cuối cùng, nhưng rất quan trọng mà chúng ta thường bỏ quên, nằm trong lãnh vực xúc động : chúng ta thực hiện bao nhiêu động tác đi lên ấy, với một thái độ và tâm trạng như thế nào ? Hạnh phúc và thoải mái, an lạc và tự tin ? Hay là xao xuyến, căng thẳng và loạn động, nhất là với một ý đồ toàn năng, siêu ý định và siêu ý chí ?

Với những điều kiện nội tâm như vậy, chúng ta dễ có xu thế áp đặt từ ngoài và từ trên, những chương trình phản ảnh tham vọng của chúng ta, thay vì lắng nghe, tìm hiểu nhu cầu chính đáng của trẻ em.

Ngoài ra – đây là mục tiêu thứ hai của tác phẩm – mỗi trẻ em tự kỷ là một thế giới đặc thù và riêng biệt. Vừa khi ra khỏi lòng mẹ, và thậm chí trong lúc còn ở trong tử cung, bất kỳ trẻ em nào không phải là một loại « vườn không nhà trống ». Chúng ta muốn trồng gì vào đó, thì trồng. Xây gì lên trên ấy, thì xây. Trái lại, trong mỗi tế bào thần kinh của não bộ, thể theo lối nhìn và kết quả nghiên cứu công phu của tác giả Douglas M. ARONE, bao nhiêu chương trình đã được cài đặt và khắc sâu đậm nét.

Trong tầm tay và điều kiện cụ thể của mình, môi trường có trách nhiệm làm những gì, từ khi trẻ em vừa ra chào đời ?

- Trước hết, vun tưới và củng cố những chương trình cần củng cố và vun tưới ?

- Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi, để chuyển hoá, uốn nắn lại hay là điều chỉnh những gì đã bắt đầu có hướng đi lệch lạc ?

- Sau cùng, khi mầm mống tự kỷ đã có mặt, môi trường giáo dục có trách nhiệm làm những gì, không chần chờ, hẹn rày hẹn mai, để cản trở mầm mống ấy ngày ngày trở nên một cây cổ thụ, « một sự đã rồi », lúc trẻ em lên 7 tuổi ?

Môi trường là ai, nếu không phải là chính chúng ta tất cả, không trừ sót một ai ?

Thay vì xuyên qua liếc nhìn lẫn tránh hay là lời nói xiên xẹo, nhằm đổ lỗi, tố cáo cho các bậc làm cha mẹ … ai trong chúng ta cảm thấy mình có vai trò nâng đỡ các bà mẹ trẻ đang khổ đau, tê liệt ? Phải chăng chúng ta hãy bước lại gần, giải thoát những mặc cảm tội lỗi vô căn cứ, đang đè nặng lên tâm tư của họ ?

Ngoài ra, nhằm chu toàn ba trách vụ vừa được nói tới, là : Vun tưới,  Chuyển hóa và  Cản trở, chúng ta không thể không học.

-         Học nhìn đứa con, với một lối nhìn trinh nguyên, trong trắng, chưa có vết tích của khổ đau bóp méo và xuyên tạc.

-         Học nghe đứa con, với vành tai xôn xao, chưa vướng mắc vào một nỗi lo sợ đang trấn áp mọi sức sống vươn lên.

-         Học tiếp xúc và trao đổi, thậm chí với đứa con đang gặp những khó khăn lớn lao, trong lãnh vực quan hệ xã hội thông thường, hằng ngày.

Hẳn thực, trước khi có khả năng phát huy ngôn ngữ đang được sử dụng trong môi trường gia đình, phải chăng đứa bé sơ sinh đã « chuyện trò » với người mẹ bằng cách nầy hay cách khác, bắt đầu với « tiếng khóc chào đời ». Trong câu chuyện đầu tiên ấy, phải chăng đứa con đã được đón nhận và chấp nhận vô điều kiện, với tư cách là một con nguời toàn bích và toàn diện, đang từ từ mở ra cánh cửa nội tâm, để thu hóa những đóng góp của môi trường và thế giới bên ngoài ? Mỗi đứa con có một tốc độ nhanh hay chậm khác nhau. Một gốc tre, chẳng hạn, từ ngày được trồng xuống lòng đất, phải đợi chờ chung quanh 3 năm, mới có thể nảy ra một chồi măng đầu tiên. Một người tự kỷ cũng vậy, như trường hợp của Sean BARRON, phải đợi chờ 25 năm, mới bắt đầu trao đổi chuyện trò qua lại với người mẹ sinh ra mình.

Chính vì bao nhiêu lý do vừa được giới thiệu một cách sơ phác, cuốn sách thứ ba nầy về Hội Chứng Tự Kỷ, mang tựa đề : « Phát huy những quan hệ xã hội, trong vấn đề giáo dục trẻ em tự kỷ ».

Lý do đầu tiên thúc giục tôi xếp đặt quan hệ xã hội, lên hàng ưu tiên số một, vì tất cả trẻ em tự kỷ đang gặp những khó khăn trầm trọng và chủ yếu, trong lãnh vực nầy.

Lý do thứ hai phản ảnh những thành quả mới nhất, trong các công trình nghiên cứu về Hội Chứng Tự Kỷ, ở Âu Tây cũng như ở Bắc Mỹ. Hẵn thực, đầu năm 2006, trong một tác phẩm có tầm cỡ quốc tế, tác giả Daniel GOLEMAN đã nhấn mạnh vai trò của Trí Thông Minh Xã Hội, trong mọi lãnh vực sinh hoạt thuộc đời sống làm người.

Trí thông minh xã hội bắt đầu chớm nở, khi trẻ sơ sinh nhìn thẳng vào hai mắt của người mẹ.

Trí thông minh xã hội đã có mặt, nảy mầm đâm mộng, vào những lúc hai mẹ con sung sướng trao đổi nụ cười với nhau, nhất là sau khi trẻ sơ sinh đi vào lứa tuổi 2-3 tháng.

Trí thông minh xã hội đã có mặt, khi đứa bé biết ngoảnh mặt nhìn nơi khác, trong một vài giây đồng hồ, nhằm giải tỏa những căng thẳng đang leo thang trong nội tâm của mình. Chính lúc ấy, nếu ý thức được rằng những kích thích hiện tại của mình đang vượt quá ngưỡng chịu đựng của đứa con, bà mẹ sẽ biết dừng lại, hay là sáng tạo những loại kích thích khác.

Làm được như vậy, bà đang giúp đứa con phát huy trí thông minh xã hội của mình, xuyên qua cách chọn lựa và quyết định « khi nào mở ra, khi nào đóng lại » khả năng tiếp thu và hội nhập của mình.

Bài học đầu tiên và lớn lao nhất, trong đời sống của mỗi con người, phải chăng là ý thức được rằng : tôi được thương yêu vô điều kiện và tôi được kính trọng, vì tôi là một con nguời có giá trị tuyệt đối ?

Ngoài ra, khi trí thông minh xã hội được ngày ngày phát triển như vậy, một đường giây thần kinh sẽ xuất hiện trong não bộ, nhằm nối kết các trung tâm khác nhau của Hệ Viền và Tân Vỏ Não. Nhờ vào đó, những sức ép hay là xung năng tự nhiên và bồng bột của Hạnh Nhân sẽ từ từ nhận được ánh sáng điều hướng và điều hợp của Thùy Trán thuộc Tân Vỏ Não đưa xuống. Ngược lại, Hạnh Nhân thuộc Hệ Viền gửi lên những tin tức, sau khi tham cứu Kho tàng hoài niệm là Hải Mã. Dựa vào đó, Thùy Trán có thể đề xuất những chương trình hành động vừa có tình vừa có lý, vừa phản ảnh những giá trị và ý nghĩa làm người, vừa thích ứng với những nhu cầu của thực tế và thực tại.

Khi hiểu rõ những cơ chế sinh hoạt của Trí thông minh xã hội, được thể hiện một cách cụ thể trong những đường dây thần kinh đi lên và đi xuống như vậy, cha mẹ, người giáo viên và các chuyên viên có thể hợp tác với nhau. Cùng nhau, họ sẽ sáng tạo những dụng cụ, những phương tiện, những cách làm, nhằm bổ túc những gì đang còn thiếu vắng, điều chỉnh lại những gì đang sai lệch và kiện toàn những gì chưa hoàn chỉnh, trong bản thân và đời sống của chính mình. Nhờ vào đó, một trẻ em tự kỷ sẽ thừa hưởng nhiều cơ may và điều kiện thuận lợi, khả dĩ chuyển hóa bản thân và cuộc đời có nguy cơ của mình.

Trong tinh thần và ý hướng giáo dục như vậy, cuốn sách thứ ba nầy sẽ lần lượt trình bày và giới thiệu trong những chương kế tiếp, những trọng điểm chính yếu như sau :

-         Trong chương Một, tôi sẽ trùng tuyên, một cách đầy đủ và tổng hợp về 3 Triệu Chứng chính qui và đặc hiệu thuộc hội chứng Tự Kỷ Cầu Vồng. Thay vì chỉ mô tả những hiện tượng bên ngoài, tôi sẽ nhấn mạnh một sự kiện có tầm mức quan trọng, trong lãnh vực quan hệ tiếp xúc và trao đổi. Hẳn thực, khi từ giả cung lòng ấm cúng của người mẹ, đứa bé sơ sinh cần một cung lòng ấm cúng khác, để lớn lên và phát triển, trong môi trường xã hội. Cung lòng ấm cúng nầy không còn là Tử Cung của bà mẹ. Cung lòng nầy được kết dệt bằng những nụ hôn, bằng những bàn tay xoa bóp. Bằng những giọng hò ru con, người mẹ và những ai « đại diện mẹ », gọi về trong giấc mơ và tâm tuởng của con, cả một giang sơn đất nước, bao nhiêu tầng tầng lớp lớp anh chị em đồng bào. Trong khung cảnh hồn thiêng sông núi ấy, khi nằm một mình trong nôi đứa bé đã biết nhếch miệng mỉm cười – một nụ cười sinh lý -  « với Bà Mụ, Bà Tiên, Bà Âu Cơ ». Nụ cười vô thức ấy sẽ từ từ chuyển qua nụ cười xã hội có ý thức, nếu có người đang có mặt với con, chớp thời cơ, để nhìn con, khen con, chuyện trò với con. Bắc lên cho con những nhịp cầu, với người có mặt, cũng như với người không có mặt, nhưng đang hiện diện tràn đầy, để kiến tạo một « cái KHUNG » bao bọc chiếc nôi của con và tạo an toàn cho con.

-         Chương Hai sẽ liệt kê và trình bày 5 loại sinh hoạt khác nhau, nhưng bổ túc và kiện toàn cho nhau, nhằm xây dựng và không ngừng tô điểm nội tâm của con người. Tôi đồng ý một phần nào với Simon BARON-COHEN, khi tác giả nầy khẳng định rằng trẻ em tự kỷ không có NỘI TÂM. Nhưng Nội Tâm, trong tầm nhìn của tác giả, không phải chỉ là Thinking hay là Thinking Mind, nghĩa là Tư Duy mà thôi. Thêm vào đó, tư duy chỉ là một công đoạn duy nhất, thuộc về một quá trình gồm có nhiều thành tố giao thoa và kết hợp với nhau, như : Năm giác quan, Xúc động, Ngôn ngữ và Quan hệ qua lại giữa người với người.

Vì lý do sư phạm và vấn đề trình bày, tôi không thể KHÔNG phân biệt trong và ngoài, truớc và sau, giữa 5 thành tố ấy. Tuy nhiên, trong thực tế sinh hoạt, năm thành tố mà tôi vừa liệt kê, tác động qua lại hai chiều, giao thoa chằng chịt với nhau, cưu mang và phát huy, nhưng cũng có thể cản trở và hạn chế lẫn nhau.

Bao nhiêu nhận xét ấy nhằm nhấn mạnh một sự kiện chất chứa nhiều ý nghĩa : khi trẻ em không có hay là từ chối quan hệ, phải chăng đó là một cách khẳng định rằng : Tôi muốn, tôi cần một loại quan hệ hoàn toàn khác. Thay vì những loại quan hệ độc chiều, như tố cáo, trừng phạt, áp đặt…để làm người và thành người, tôi cần nhất là những quan hệ đồng cảm và lắng nghe. Khi tôi không nói, không nhìn, chính khi ấy, tôi đang diễn tả mình, với một loại « ngôn ngữ không lời ». Sở dĩ tôi rút lui, thu mình trong vỏ ốc tự kỷ, phải chăng vì tôi đang cần một quan hệ an toàn.

Và loại quan hệ an toàn ấy đang còn vắng mặt, một cách trầm trọng, trong môi trường giáo dục ngày hôm nay. Ai trong chúng ta có khả năng nhạy bén, để lắng nghe, ghi nhận và tôn trọng ý nghĩa của « câu chuyện không lời » ấy ?

 -         Chương Ba phản ảnh công trình nghiên cứu và tổng hợp của Daniel GOLEMAN. Toàn bộ tác phẩm của tác giả nầy, nhằm trả lời một cách rốt ráo cho vấn nạn : Trí Thông Minh Xã Hội là gì ? Trong hiện tại, quan niệm về Trí Thông Minh Tổng quát, đang được dạy dỗ trong môi trường học đường, đã đẩy đưa toàn thể nhân loại khắp đó đây, từ đông qua tây, từ bắc xuống nam, vào vòng sản xuất, tiêu thụ, làm ô nhiễm môi trường, chế tạo vũ khí và bốc lột con người. Cho nên đã đến lúc, vấn đề cần được đặt ra và khảo sát về Trí Thông Minh Xã Hội, nhằm lột trần và phơi bày một cách can đảm, trước mắt mọi người, hai câu hỏi cơ bản.

Câu hỏi thứ nhất : Mục đích của con người sinh ra trong trời đất, phải chăng là SỐNG HẠNH PHÚC ?

Câu hỏi thứ hai : Khi hai con người lại gần, trao đổi và tiếp xúc với nhau, phải chăng họ tìm cách tạo ra cho nhau mọi điều kiện thuận lợi, để giúp nhau thành người ? Trong thực tế của xã hội ngày nay, con người khắp nơi, trên mặt địa cầu, có xu thế tranh chấp, tàn sát, hoại diệt lẫn nhau, trên mọi bình diện, thậm chí trong những cộng đoàn và cộng đồng mang tính cách tôn giáo, với chí hướng phục vụ nhân loại. Còn có chăng một loại người vẫn ngày ngày thắp sáng lý tưởng làm người và cố quyết sống tình người với nhau ?

-         Trong Chương Bốn, một câu hỏi quan trọng được nêu lên : Trí Thông Minh Xã Hội  có những cơ sở và tổ chức thần                                   kinh như thế nào ?

Các nhà khoa học về Thần Kinh Não Bộ đã khẳng định : Không có ba loại cấu trúc thần kinh đặc thù và chuyên môn, dành cho ba loại Trí Thông Minh khác nhau như Tổng Quát, Xúc Động và Quan Hệ Xã Hội. Trái lại, khi hoạt động và phát triển, mỗi loại trí thông minh từ từ sáng tạo và củng cố những đường dây chuyên biệt cho mình. Nhằm gửi tin đi, hay là nhận tin đến, những đường dây thần kinh  nầy nối kết lại với nhau các trung tâm đã có sẵn thuộc 3 giai tầng cấu trúc là : Thân Não, Hệ Viền và Tân Vỏ Não. Một cách đặc biệt, Trí Thông Minh Xã Hội hoạt động với hai đường dây chính yếu. Đường thứ nhất mang tên là Đai lộ phía trên (High Road), nối kết Thùy Trán và các Thùy khác thuộc Tân Vỏ Não với Cấu Trúc Hạnh Nhận thuộc Hệ Viền. Đường thứ hai mang tên là Đại lộ phía dưới (Low Road), phát xuất từ Hạnh Nhân và có liên hệ với những cơ quan thuộc Giai tầng Thân Não và Tiểu Não. 

Điều đáng chúng ta quan tâm một cách đặc biệt là càng hoạt động một cách tích cực, Trí Thông Minh Xã Hội càng củng cố và tăng cường những đường dây thần kinh não bộ của mình, về mặt lượng cũng như về mặt phẩm.

Thêm vào đó, bao lâu trí thông minh xã hội càng được chúng ta vận dụng và kích hoạt, ngược lại với những tin tưởng và thành kiến trước đây, những tế bào thần kinh vẫn luôn luôn được tái sinh và đổi mới…

Ngoài ra, các điểm giao liên giữa các tế bào, còn mang tên chuyên môn là khớp xi-nắp, càng ngày càng nhân ra thêm nhiều, nếu có nhu cầu đổi mới hay là thay thế. Nói một cách vắn gọn, càng vận dụng một cách tích cực Trí Thông Minh Xã Hội, để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống, chúng ta càng tái tạo và đổi mới Hệ Thần Kinh Não Bộ.  

Chương Năm sẽ bàn thêm về quan hệ tác động qua lại giữa Bẩm sinh và Môi trường, hay là giữa Gên và ảnh hưởng của giáo dục.

Hẳn thực, nếu giả thuyết về « nguồn gốc hay là nguyên nhân của hội chứng tự kỷ là Gen hay là Bẩm Sinh » được chứng minh, một cách khoa học và khách quan, chúng ta cũng chưa thể nào khẳng định rằng : Một trẻ em mang Gen tự kỷ, sẽ suốt đời là người tự kỷ. Trường hợp Gen không được kích hoạt, để có thể nẩy mầm đâm mộng, nhờ vào ảnh hưởng giáo dục có khả năng tạo ra cho trẻ em những quan hệ xã hội tích cực, xây dựng, an toàn và vui tươi, sung sướng, làm sao một trẻ em có thể trở nên người tự kỷ ?

Nếu trong vòng 3 năm đầu tiên, chương trình tự kỷ có sẵn trong tế bào thần kinh, không được môi trường kích động, khởi động, nghĩa là được chuyển biến thành hiện thực, chương trình ấy sẽ bị vô hiệu hóa và tạn lụi vĩnh viễn. Tin tức nầy mở ra trước mặt chúng ta một Đại Lộ thênh thang đầy lạc quan và hứa hẹn. Nhưng đồng thời, tin tức khoa học ấy đang gây ý thức về một trách nhiệm lớn lao : Số phận và ngày mai của trẻ tự kỷ nằm trọn trong lòng bàn tay và quyết định của chính chúng ta.

Trong tinh thần phục vụ trẻ em tự kỷ, tiếp theo những nhận xét vừa được trình bày, tôi sẽ đề nghị một số sinh hoạt như sau :

Mục tiêu cần nhắm tới, và ngày ngày chuyển biến thành hiện thực, bằng những động tác cụ thể, là tạo cho trẻ em những quan hệ hài hòa, có mặt, lắng nghe, tôn trọng, đồng cảm và vui tươi.

Về mặt kỹ thuật, chúng ta sử dụng những hình ảnh của trẻ em và những người thân như cha, mẹ, anh, chị em…, những cuốn phim ghi hình trực tiếp, khi trẻ em buồn, sợ, giận, vui sướng.

Tất cả những phương tiện nầy, cọng với ngôn ngữ hồn nhiên và sống động của chúng ta, nhằm phản ảnh cho trẻ em thấy mình, nghe mình, nhìn vào khuôn mặt của mẹ và của cha, trên các tấm hình.

Mục dích cuối cùng mà chúng ta luôn luôn nhắm tới, trong những sinh hoạt vui chơi và phản ảnh, như vừa được trình bày, là kích thích những tế bào hình suốt (spindle cells), cũng như những tế bào phản ảnh (mirror neurons), có mặt trong các đường dây thần kinh sau đây :

-         Đường dây nối kết Hạnh Nhân với Thùy OFC (Orbito-Frontal Cortex, Thùy Trán-Ô mắt),

-         Đường dây nối kết Hạnh nhân với Thùy ACC (Anterior Cingulae Cortex, Thùy Đai Phía Trước).

Khi hai đại lộ thần kinh não bộ « phía trên nầy » hoạt động mạnh, trẻ em tự kỷ sẽ từ từ tiến lên khả năng thiết lập những quan hệ xây dựng và hài hòa với người khác, trong bất cứ môi trường xã hội nào.

Chương Sáu mang tựa đề « Hai bộ mặt : Bóng Tối và Ánh Sáng… ». Chương cuối cùng nầy đặc biệt dành cho những người có trách vụ giáo dục và phục vụ trẻ em có nguy cơ tự kỷ. Nhằm giúp đỡ một cách hữu hiệu con em và học sinh của mình, phải chăng cha mẹ và các giáo viên, hơn ai hết, cần hiểu rõ mình là ai, đang mang những bộ mặt nào, khi thiết lập quan hệ với trẻ em, cũng như khi phản ảnh những xúc động của các em. 

Trong chương Sáu với tựa đề Hai Bộ Mặt « Bóng Tối và Ánh Sáng » trong mỗi quan hệ đối tác xã hội, tôi sẽ bàn đến ảnh hưởng của Xúc Động, trong đời sống của con người.

Trong lời Nói Cuối, tôi sẽ nhắc lại ba nhiệm vụ giáo dục :

-         Thiết lập những quan hệ đồng cảm với trẻ em,

-         Giúp trẻ em diễn tả những xúc động,

-         Phát huy tư duy cấu trúc, khi giải quyết vấn đề 

Trong toàn bộ cuốn sách, khi bàn về vấn đề thiết lập và phát huy những quan hệ với trẻ em, phải chăng chúng ta cần lắng nghe lại những lời nhắn nhủ của Tổ Tiên và Cha Ông : 

-         Có công mài sắt ắt ngày thành kim.

-         Kiến tha lâu đầy tổ.

-         Nước chảy đá mòn.

-         Mẹ già như chuối ba hương,

Như xôi nếp một, như đường mía lau.

-         Công cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Nhờ những bài học nầy làm điểm tựa, chắc chắn chúng ta tất cả có thể « dời núi, lấp sông », cho trẻ em, vì trẻ em và với trẻ em.

 

Sách tham khảo trong Lời Mở Đường:

1)  Daniel GOLEMAN – Social Intelligence  -   Hutchinson,

                                    London 2006.

2) Judy & Sean BARRON – Moi, l’enfant autiste – Plon 1933.

                         - There’s a boy in here – Simon&Schuster, N.Y.

                                            1991.

3) Jacques SALOMÉ – Heureux qui communique – Albin Michel

                                         Paris 1993.

4) M.B. ROSENBERG – Enseigner avec bienveillance – Jouvence

                                           2006.

5) Douglas M. ARONE  - The Theorem  -  O Books,

                                           Winchester UK 2005.

----------------------------------------------------------------------------- 

NỘI DUNG

 

0.- Lời Mở Đường : Ưu tiên số Một trong vấn đề giáo dục trẻ em Tự Kỷ là gì ?

1.- Chương MỘT : Hội Chứng Tự Kỷ : Lối Nhìn toàn diện,

2.- Chương HAI : Những loại Sinh Hoạt,

3.- Chương BA : Trí Thông Minh Xã Hội,

4.- Chương BỐN : Cở Sở Thần Kinh của Trí Thông Minh,

5.- Chương NĂM : Bẩm Sinh vá Môi Trường,

6.- Chương SÁU : Hai bộ mặt « Bóng Tối và Ánh Sáng » trong mỗi quan hệ đối tác xã hội,

7.- Lời Nói Cuối : Tư Duy Cấu Trúc.

8.- Phụ Trương 1 :Xây dựng quan hệ Đồng Cảm và Bao Dung.

9.- Phụ Trương 2 : Chương trình Can Thiệp Sớm,

10.- Phụ Trương 3: Phát huy Tư Duy không lời,

11.- Phụ Trương 4: Những bước đi lên của Ngôn Ngữ,

12.- Phụ Trương 5: Bốn con Yêu Tinh trên mỗi nẻo đường…

13.- Phụ Trương 6: Xây dựng Lòng Tự Tin từ 0 – 6 tuổi,

14.- Phụ Trương 7: Tâm sự của Ông Lái Đò…

15. Thay Lời Kết Luận
 

Tác giả Gs. Nguyễn Văn Thành


Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!