Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

Gs. Nguyễn Văn Thành
Mục Lục

Chương I: Hội chứng tự kỷ

Chương II : Những sinh hoạt chính yếu của con người

Chương III : Trí Thông Minh Xã Hội

Chương IV : Những Cơ Sở Thần Kinh của Trí Thông Minh Xã Hội

Chương V: Bẩm Sinh và Môi Trường Giáo Dục

Chương VI : Hai bộ mặt « Bóng tối và Ánh sáng »…trong mỗi quan hệ đối tác xã hội

Lời Nói Cuối : Tư Duy Cấu Trúc trong lãnh vực Giáo dục

Phụ Trương I : Xây dựng Quan Hệ Đồng Cảm và Bao Dung với trẻ em có nguy cơ Tự Kỷ

Phụ Trương II: Những bài học từ dễ đến khó Trong Chương Trình CAN THIỆP SỚM

Phụ Trương III: Phát Huy « Tư Duy không lời » nơi trẻ em có nguy cơ Tự Kỷ…

Phụ Trương IV: Để giúp trẻ em có « nguy cơ Tự Kỷ » sử dụng và phát huy Ngôn Ngữ

Phụ trương V : Bốn con “Yêu Tinh”… Trên mọi nẻo đường của Đất Nước

Phụ Trương VI : Xây dựng lòng tự tin nơi con cái dưới 6 tuổi

Phụ Trương VII : Tâm sự của Ông Lái Đò…

Thay lời kết luận

CÙNG MỘT TÁC GIẢ

Lắng Nghe, Một Quà Tặng Vô Giá !

Lòng Tự Tin - Hành trang cho ngàn năm thứ ba

Khung trời mở rộng bằng con đường thuyên giải

Bản câu hỏi về tính tình

Phát Huy Quan Hệ Xã Hội Trong Vấn Đề Giáo Dục Trẻ Em Tự Kỷ

Trong Đức Kitô

Nguy cơ Tự Kỷ (nơi trẻ em từ 0 đến 7 tuổi)

Trẻ Em Tự Bế (Autistic Children) - Phương thức giáo dục và dạy dỗ

Quan hệ mẹ con : Bài học đầu tiên của cuộc sống

Phương Pháp Tâm Vận Động

Trẻ Em Chậm Phát Triển

Đồng Cảm Để Đồng Hành

Lắng Nghe Chúa Thánh Thần

Đối Thoại Một quê hương Tình Người

Nguyễn Trãi, Vạn Xuân và Đại Việt

Con Đường Bao Dung

Huyền Sử Việt Nam

Tư Duy và Hành Động

Phát Huy Quan Hệ Xã Hội Trong Vấn Đề Giáo Dục Trẻ Em Tự Kỷ
Phụ Trương IV: Để giúp trẻ em có « nguy cơ Tự Kỷ » sử dụng và phát huy Ngôn Ngữ

        Mục đích của ngôn ngữ bao gồm 2 thể loại chính yếu.

   - Mục đích thứ nhất là diễn tả ra ngoài cho kẻ khác hiểu biết những xúc động và lối nhìn của mình đang được cưu mang trong nội tâm : « tôi CẦN gì ? » và « tôi có Ý ĐỊNH làm gì ? ».

  

- Mục đích thứ hai là thông đạt và trao đổi với kẻ khác đang kết dệt quan hệ với chúng ta. Nhờ tiếp xúc qua lại như vậy, một đàng tôi trình bày cho kẻ khác biết tôi ghi nhận và hiểu biết ý kiến của họ thế nào. Đàng khác, sau khi nghe họ phát biểu, tôi kiểm chứng cách họ hiểu biết về tôi có ăn khớp với thực tế và nhu cầu cơ bản của tôi hay không.

 

Nói một cách vắn gọn, xuyên qua vai trò trung gian của ngôn ngữ, con người có khả năng gọi ra vùng ánh sáng của ý thức, những nội dung đang hiện hình và có mặt trong nội tâm, thuộc 2 lãnh vực Tư Duy và Xúc Động. Nhờ đó, hai chủ thể đang tiếp xúc với nhau, có thể thiết lập và kết dệt qua lại những quan hệ trao đổi, đồng cảm và đồng hành, nhằm bổ túc và kiện toàn cho nhau.

 

Không nắm vững hai mục đích nầy, khi sử dụng ngôn ngữ, người nói chỉ tác động giống như keo vẹt, lặp lại một cách máy móc, hay là giống như một chiếc máy hoàn toàn vô tâm, vô trí, đang phát âm một cách tự động. Tệ hại hơn nữa là chúng ta dùng lời nói để áp đặt, cưỡng chế, tố cáo, gây ra hận thù, bạo động, chia rẽ và kỳ thị.

 

Để có thể sử dụng ngôn ngữ một cách có ý thức, trẻ em từ ngày ra khỏi cung lòng của người mẹ, đã phải kinh qua một tiến trình học hỏi và tập luyện, trong nhiều lãnh vực khác nhau, như : Bắt chước, Vận động Tinh và Thô, Phối hợp các giác quan, Tư duy và nhất là Quan hệ với kẻ khác. Nói cách khác, ngôn ngữ là thành quả, là hoa trái phát xuất từ nhiều điều kiện sinh hoạt, đang giao thoa chằng chịt và tác động qua lại với nhau.

 

Chính vì những lý do vừa được trình bày, khi một trẻ em bộc lộ những hiện tượng chậm trể về ngôn ngữ, như trong trường hợp của các trẻ em có nguy cơ « Tự Kỷ », nguyên nhân gây ra rối loạn  không hẳn chỉ được thu hẹp trong lãnh vực và giai đọan ngôn ngữ, từ lứa tuổi 15 đến 36 tháng (3 năm) mà thôi. Trái lại, chúng ta cần phải trở lui về trước, củng cố tất cả những sinh hoạt nền tảng.

 

Trong tinh thần và lăng kính ấy, nhằm trang bị cho trẻ em « có nguy cơ Tự Kỷ », những dụng cụ và điều kiện cần thiết để đi vào lãnh vực ngôn ngữ, bài chia sẻ nầy sẽ lần lượt khảo sát và đề nghị những bài học trong 3 chiều hướng sau đây:

 

-         Chiều hướng thứ nhất : Những bài học lắng nghe, tiếp thu và hiểu biết ý nghĩa của một số tình huống trong cuộc sống hằng ngày,

-         Chiều hướng thứ hai : Những bài học bắt chước kẻ khác, trong lãnh vực điệu bộ, cử chỉ… còn mang tên là « ngôn ngữ không lời »

-         Chiều hướng thứ ba : Những bài học chuẩn bị phát âm và sử dụng ngôn ngữ, nếu những cơ quan liên hệ đến vấn đề phát âm không bị thương tổn.

 

 

                                                       ***

 

 

 

Phần thứ Nhất : Những bài học về nghe và hiểu biết

 

 

Để có thể khởi đầu những bài học nầy, trẻ em cần được khám xét về mặt chuyên môn y khoa, nhất là trong lãnh vực Tai-Mũi-Họng và Hệ Thần Kinh trung ương.

 

Hẳn thực, để có thể biết nghe và hiểu,

 

-         Trẻ em không « khiếm thính » : những cơ quan và đường giây thần kinh có liên hệ đến thính giác, vẫn nguyên vẹn.

 

-         Trẻ em không thuộc diện « bại não » : thùy Thái Dương thuộc hệ thần kinh trung ương có liên hệ đến thính giác vẫn hoạt động bình thường. Thùy Trán có phần vụ điều khiển những cử động và phản ứng không bị tổn thương.

 

 

 

1.-Bài học thứ nhất : Ghi nhận và phát huy những phản ứng đối với những loại tiếng động và âm thanh, trong nhiều tình huống khác nhau.

 

Điều kiện làm việc : 2 người lớn, các loại dụng cụ như chuông, lúc lắc, trống, thanh la, kèn…

 

Một người lớn ở phía sau trẻ em, trong một lúc bất ngờ, tạo nên những tiếng động hay là những âm thanh khá mạnh.

 

Một người lớn quan sát trẻ em và ghi nhận kết quả. Nếu trẻ em có những phản ứng như giật mình, bịt tai, la ó…Hãy lại gần giải thích sự kiện, tạo an toàn và khen thưởng. Ví dụ ôm choàng trẻ em và nói : « Em nghe tiếng kèn rất lớn do cô C tạo nên, em giật mình, run rẩy, em thét la vì sợ…Như vậy, cô biết là em có lỗ tai rất thính, nghe rõ ràng. Cô mừng. Hoan hô em. Cô sẽ báo tin mừng cho cha mẹ của em…Để thưởng em, cô cho phép em chơi trò chơi nầy trong 5 phút, hay là ra chơi cầu tuột ».

 

 

 

2.-Bài học thứ hai : Phát hiện nguồn gốc của tiếng động và âm thanh.

 

Điều kiện làm việc vẫn giống như trong bài học một.

Người gây ra tiếng động hoặc âm thanh, sau khi ghi nhận phản ứng của trẻ em, lùi lại với những khoảng cách càng lúc càng xa, đối với vị trị hiện tại của trẻ em.

 

Người lớn có nhiệm vụ ghi nhận phản ứng của trẻ em, cần quan sát thêm : sau mỗi lần tiếng động xuất hiện, trẻ em có phản ứng quay đầu nhìn về phía tiếng động không. Phản ứng phát hiện nguồn gốc của tiếng động như vậy bắt đầu từ vị trí nào và chấm dứt ở vị trí nào, với âm thanh của dụng cụ nào.

 

Trong mỗi bài học, sau khi trẻ em có phản ứng, người lớn luôn luôn khen thưởng trẻ em, bằng cách phản ảnh hoàn cảnh đang xảy ra và bộc lộ cho trẻ em thấy nỗi niềm sung sướng và bằng lòng của mình. Tuyệt đối tránh xa những câu khen sáo cưởng như : « hoan hô, em giỏi lắm… » không có khả năng phản hồi cho trẻ em về giá trị hiện thực của mình. Đàng khác, những thái độ hôn hít lung tung, lộn xộn chỉ tạo nên cho trẻ em tình trạng lệ thuộc. Mục tiêu chính yếu của bài học bị đánh mất.

 

 

3.- Bài học thứ ba : Phản ứng khi được gọi bằng tên riêng của mình.

 

Thoảng hoạt trong ngày, cô giáo hay là cha me gọi trẻ em bằng tên riêng, từ nhiều vị trí khác nhau, như khi ở trước mặt, khi ở bên cạnh, khi ra xa, khi lại gần… Mỗi lần, ghi nhận phản ứng của trẻ em. Không quên khen thưởng, khi trẻ em bộc lộ phản ứng tích cực.

 

 

4.- Bài học thứ tư : « Hãy nhìn Mẹ (cô) đây này », và ghi nhận cách trẻ em trả lời, đáp ứng.

 

Vừa nói, vừa một tay giả bộ che mắt lại. Đưa ngón tay trỏ của tay kia chỉ vào miệng của mình.

 

Với trẻ em có nguy cơ Tự Kỷ, chúng ta hãy tập cho trẻ em bắt đầu nhìn miệng, trước khi em có thể nhìn thẳng vào mắt.

 

 

5.- Bài học thứ năm : Hiểu và Dừng lại khi người lớn nói « KHÔNG »

 

Khi trẻ em vừa khởi đầu một hành vi « rối loạn », như đánh một em khác, nhổ tóc…tức khắc nói « KHÔNG » một cách rõ ràng và nghiêm nghị.

 

Những cách làm :

 

-         Khởi đầu càng sớm càng hữu hiệu, vừa khi hành vi  mới « chớm nở, ló lên »,

 

-         Vừa nói Không, vừa lại gần trẻ em,

 

-         Chúng ta vừa tiến lại gần, nếu trẻ em còn tiếp tục, vừa đưa tay tách rời và cản ngăn hành vi. Tách rời khỏi đối tượng của hành vi (như trẻ bị đánh, đồ chơi bị ném xa…).

 

-         Tuyệt đối không nói nhiều, để rồi trẻ em không hiểu rõ chúng ta muốn nói gì. Cho nên trong tình huống nầy, nhiều tác giả như Th. PEETERS đề nghị dùng ký hiệu « Cấm xe đi qua » (Bảng tròn đỏ có hình chủ nhật trắng ở giữa).

 

-         Vừa nói Không, vừa đưa ngón tay làm dấu « Không ».

 

-         Nếu trẻ em còn tiếp tục, cầm tay trẻ em và tách rời chính trẻ em ra khỏi đối tượng.

 

-         Tuyệt đối không bảo ra ngoài, khỏi mặt chúng ta, hay là dùng kế « đánh trống lảng », bằng cách trao một đồ chơi, vì đó là những hình thức củng cố và tăng cường hành vi, thay vì giảm khinh, làm tan biến.

 

-         Cách làm cuối cùng là cô lập trẻ em, trong vòng tay cứng rắn của chúng ta.

 

Chúng ta làm tất cả và trải qua những giai đoạn trên đây, với một tâm hồn tự tin, thanh thản, an bình, không một gợn ý đồ trừng phạt, áp chế và bạo động. Theo lối nói của Spencer JOHNSON, đó là món quà Tình Yêu « loại cương » ( hard love ), mà chúng ta đang trao tặng cho trẻ em. Chính Tình yêu loại cương nầy có khả năng tạo an toàn và cấu trúc hóa cho trẻ em. Nhờ đó, trẻ em có khả năng học được bài học phân biệt :  « Tôi có thể làm được gì, và tôi KHÔNG CÓ PHÉP làm những gì, trong đời sống làm người. Hành vi hiện tại của tôi không được mẹ, cô chấp nhận. Tuy nhiên, mẹ và cô vẫn thương và kính trọng con người và giá trị của tôi ». Cũng nhờ vào ý thức nầy, sau khi làm những điều nhằm « hạn chế » trẻ em, chúng ta « không trách mình, không có mặc cảm tội lỗi, không lo buồn, trầm cảm ». Trong tiếng Anh, thuật ngữ thường được dùng, để diễn tả tâm trạng nội tâm có xu thế « tố cáo và trừng phạt mình, một cách lải nhải suốt ngày đêm » là « BURN-OUT », có nghĩa là bị thiêu rụi, bị đốt cháy thành tro tàn ». Hẳn thực, không ai ác độc với mình, bằng chính mình.

 

Một cách đặc biệt, bài học về từ « KHÔNG » cần được tổ chức thường xuyên với những trẻ em có hành vi :

 

-         tự hủy,

 

-         tấn công trẻ em khác,

 

-         lặp đi lặp lại.

 

 

6.- Bài học : « Thôi, dừng lại »

 

Song song với bài học về từ « KHÔNG »,  có giá trị rất quan trọng,  trong lãnh vực giáo dục và đời sống làm người, thoảng hoạt trong ngày, trong tuần, chúng ta cần tổ chức những trò chơi hay bài học « Dừng lại ».

 

Bài học nầy cần được tổ chức một cách tập thể, để những trẻ em đã tiến bộ có thể tác động và giúp đỡ những trẻ em bé dại.

 

Sau đây tôi xin giới thiệu một cách tổ chức « Ban Âm Nhạc », nhằm kích thích hoặc xúc tác tài năng sáng tạo của mỗi cha mẹ và giáo viên :

 

Phát cho mổi trẻ em một dụng cụ làm tiếng động, như gõ mõ, đánh trống, thổi kèn, quay lúc lắc…Ban đầu thầy hay cô làm nhạc trưởng ra lệnh cho trẻ em chơi, với bàn tay ra hiệu hay là dùng một bảng hiệu với một bên đèn xanh, bên kia dèn đỏ. Giải thích cho trẻ em hiểu về ý nghĩa của bảng hiệu hay là 2 cử chỉ « Bắt đầu » và « Dừng lại ». Một cô khác làm giám thị, có phần vụ trịch thu dụng cụ và loại ra ngoài vòng, khi trẻ em nào không thi hành đúng hiệu lệnh « Dừng lại ».

 

Sau khi mọi người đều hiểu trò chơi và biết chơi, lần lượt một em được gọi lên bệ cao làm nhạc trưởng, một em khác cũng đứng trên bệ làm giám thị.

 

Trò chơi nầy cần được tổ chức nhiều lần, với tất cả mọi trẻ em, nhất là với trẻ em có nguy cơ Tự Kỷ, cho đến khi mổi em thành tựu những khả năng sau đây :

 

-         Biết dừng lại khi có hiệu lệnh,

 

-         Biết điều khiển ban nhạc, với 2 mệnh lệnh « Bắt Đầu » và « Dừng Lại ».

 

-         Biết phát hiện nhạc sĩ tí hon nào không tuân lệnh của nhạc trưởng.

 

 

7.- Bài học :  « Hãy cho… »

 

Chuẩn bị và để sẵn trên bàn, gần trẻ em, những vật dụng như đồ chơi quen thuộc, con búp-bê, khối vuông, vòng tròn… Và gần chỗ của cô giáo, cũng có những vật dụng giống y hệt như vậy.

 

Để cho trẻ em làm quen và chơi với các vật dụng, trong một chốc lát. Sau đó, một tay đưa ra trước, làm cử chỉ XIN, cô giáo nói : « (Xuân) hãy cho cô con búp-bê ».

 

Đợi xem phản ứng của trẻ em.

 

Trường hợp trẻ em không hiểu, cô giáo cầm lên con búp-bê, với tay trái, và tay mặt đưa ra trước : « Xuân ơi, hãy cho cô con búp-bê ở gần bên cạnh của em ».

 

Nếu trẻ em vẫn chưa cho, chính cô giáo làm động tác cho :  « Cô cho Xuân con búp-bê của cô … Và bây giờ, Xuân cho cô con búp-bê của Xuân đi ».

 

Với những trẻ em còn bé dại, một cô giáo hay người trợ tá ở đằng sau, hướng dẫn trẻ em bằng tay. Sau 2 hoặc 3 lần, chỉ hướng dẫn bằng ngón tay trỏ.

 

 Sau khi tổ chức bài học nầy trong vòng 2-3 phút, dù có kết quả tích cực hay không, chúng ta dừng lại ca hát, làm việc khác. Nhiều lần trong ngày và nhiều lần trong tuần, chúng ta lặp lại bài học, cho đền khi trẻ em biết cách làm.

 

Từ khi đó, chúng ta thay đổi các vật dụng, mỗi khi lặp lại bài học.

 

 

8.- Bài học : « Hãy để xuống… »

 

Cách tổ chức bài học nầy cũng tương tự như trong bài học số 7.

Tiến trình :

 

-         cô làm, trẻ em bắt chước.

 

-         vừa ra lệnh bằng lời nói, vừa làm cử điệu bằng tay.

 

-         Cô giáo ra lệnh, người phụ tá hướng dẫn trẻ em làm động tác « ĐỂ xuống ». Hướng dẫn bằng tay, cho đến khi trẻ em hiểu cần phải làm gì. Sau đó chỉ hướng dẫn bằng bộ điệu.

 

-         Khi trẻ em đã biết làm, không còn hướng dẫn.

 

-         Cô giáo hãy biết chờ đợi, đừng quá thúc giục một cách vội vàng, hối hả.

 

-         Cô giáo hãy biết nhìn, quan sát, khích lệ bằng ánh mắt và điệu bộ, thay vì nói quá nhiều.

 

-         Trước mỗi bài học, chuẩn bị người phụ tá về cách hướng dẫn.

 

 

9.- Bài học : « Hãy đến đây… »

 

Sau khi trẻ em đã biết đi, biết đứng, biết ngồi về mặt vận động, cô giáo dạy thêm bài học : « Hãy đến đây… ».

 

-         Ban đầu, giữa cô và trẻ em chỉ có khoảng cách 2-3 mét, trẻ em nhìn thấy cô.

 

-         Càng ngày càng kéo dài thêm khoảng cách, từ đầu phòng đến cuối phòng.

 

-         Cuối cùng trẻ em không nhìn thấy cô, chỉ nghe tiếng cô gọi, từ một nơi khác : « Thu ơi, đến đây với cô ».

 

 

10.- Bài học : « Hãy Đứng lên, hãy Ngồi xuống… »

 

-         Ban đầu vừa dùng lời nói, vừa làm dấu hiệu « Đứng » và « Ngồi ». Cô giáo ở trường và cha mẹ ở nhà cần thống nhất với nhau, trong cuốn sổ liên lạc tùy thân, về những cử điệu cơ bản nầy.

 

-         Tổ chức bài học, với một người phụ tá ở bên cạnh trẻ em. Lúc đầu, sau khi nghe lệnh của cô giáo, cô phụ tá hãy làm, không cần chờ trẻ em. Sau khi trẻ em đã biết làm, làm sau trẻ em một chốc lát. Giả vờ quên làm một đôi khi, để xem trẻ em có nhắc cho mình hay không.

 

-         Nếu trẻ em vẫn không làm theo, cô trợ tá hướng dẫn bằng tay, lần lần chuyển qua bằng cử điệu mà thôi.

 

-         Vào giai đoạn cuối cùng, khi trẻ em đã hiểu và biết làm, cô giáo gọi trẻ em ra xa,  tại nơi không có ghế ngồi, đoạn ra lệnh :  « Hãy ngồi xuống », và quan sát phản ứng của trẻ em có biết tìm về chỗ ngồi của mình hay không ( hay là tìm một chỗ ngồi khác).

 

 

11.-Bài học : « Nhận biết những phần khác nhau của thân thể »

 

Cô giáo bảo trẻ em : « Đông ơi, đưa tay chỉ lỗ mũi nằm đâu ». Vừa nói, cô giáo vừa chỉ mũi của mình.

 

Nếu cần, nhờ người phụ tá ngồi bên cạnh trẻ em và hướng dẫn.

 

Từ từ giảm đi những điệu bộ và cách hướng dẫn.

 

Sau đây là những phần thân thể quan trọng :

 

-         chân,

-         cánh tay,

-         tay,

-         ngón tay,

-         đầu gối,

-         bụng,

-         ngực,

-         ngón tay cái,

-         ngón tay trỏ

 

Cuối cùng tập cho trẻ em làm động tác CHỈ, với ngón tay trỏ mà thôi.

 

 

12.- Bài học : « Nhận biết và thực thi những động tác với các phần khác nhau của thân thể ».

 

Thể thức tổ chức bài học nầy hoàn toàn giống như các bài học trước : vừa nói, vừa làm, dùng thêm người hướng dẫn, cuối cùng cô giáo chỉ dùng lời nói mà thôi…

 

Sau đây là những động tác, mà trẻ em cần thu hóa và nhuần nhuyễn :

 

-         đưa 2 cánh tay lên trên cao,

-         đưa tay mặt vẫy qua vẫy lại,

-         vỗ tay vào bàn,

-         vòng tay lại,

-         vỗ hai tay với nhau,

-         đưa chân lên cao,

-         khi ngồi, đưa chân nầy đụng chân kia,

-         nắm tay lại thật chặt,

-         mở tay ra,

-         há miệng ra to, ngậm kín miệng lại,

-         mở mắt ra, nhắm mắt lại…

 

 

13.- Bài học: “Nhận biết, phân biệt, cầm lấy và trao cho người khác, những dụng cụ, đồ vật quen thuộc, nhưng có hình thức khác nhau.

 

Để gần trẻ em một số dụng cụ, ban đầu sắp thành hàng 4-5 đồ vật tối đa. Dần dần tăng số lượng và đặt để các vật liệu tách rời khỏi nhau, nhưng không sắp xếp theo thứ tự.

 

Cách làm:

 

-         “Em Châu, tìm và đưa cho cô trái banh”.

-         Khen thưởng, khi trẻ em làm đúng.

-         Nói “Không phải, đây là chiếc vòng. Em hãy nhìn và tìm  trái banh”, khi trẻ em làm sai.

-         Khi trẻ em làm sai nhiều lần (hơn 2 lần), chỉ giữ lại 2 dụng cụ  rất quen thuộc mà thôi. Sau mỗi lần, thay đổi 2 dụng cụ nầy với 2 dụng cụ khác.

-         Từ từ đi lên 3 rồi 4…

-         Nguyên tắc cần thực hiện: tạo mọi điều để cho trẻ em thành tựu. Nếu cần, hãy trở lui với những giai đoạn mà trẻ em đã thành tựu một cách dễ dàng trước đây. Có thành tựu, trẻ em mới phát huy lòng tự tin, vui thích và hứng thú.

-         Nguyên tắc thứ hai cần tôn trọng là không bao giờ quá kéo dài thì giờ làm việc và tăng lên độ khó quá nhanh chóng. Một cách vắn gọn, DỪNG LẬI, trước khi trẻ em bước qua NGƯỠNG CHỊU ĐỰNG.

-         Nguyên tắc thứ ba là vừa làm vừa chơi, làm một cách hứng thứ như chơi. Và chính cô giáo hay là cha mẹ là trò chơi lớn lao nhất, có khả năng tạo vui thú cho trẻ em. Nhờ vậy trẻ em mới thích học để biết, như lòng mong đợi của cha mẹ và giáo viên…

 

 

 

14.- Bài học: “Kết hợp hai vật dụng lại với nhau”

 

-         “ Em hãy bỏ chiếc banh vào TRONG hộp”…

-         Đặt búp mê nằm TRÊN trên giường,

-         Bỏ hạt cườm vào TRONG ly nhựa,

-         Để cuốn sách lên TRÊN bàn viết,

-         Xếp hình khối vào TRONG hộp nhựa…

Về cách tổ chức bài học, hãy đi theo những tiến trình như trước đây.

 

15.- Bài học: “Biết phân biệt để chọn lựa”

 

Trong bài học số 14 vừa qua, chỉ có 2 đồ vật cần liên kết lại với nhau.

Trong bài học nầy, có thêm một đồ vật thứ ba, để trẻ em học phân biệt trước khi chọn lựa, không thể làm theo thói quen.

 

-         (con búp-bê, trái banh, cái hộp) : “Em hãy bỏ CHIẾC BANH vào trong hộp”.

-         (hạt cườm, chiếc ly, cái thau): chiếc ly trong cái thau.

-         (con gà, con bò, chiếc xách tay): con gà trong xách tay.

 

Trong bài 14, chú trọng vào vị trí.

Trong bài 15, chú trọng vào việc chọn lựa.

 

 

16.- Bài học: “Thay đổi những động tác…”

 

-         ném xa trái banh,

-         đưa chân đẩy trái banh ra trước,

-         bỏ tờ giấy vào giỏ rác,

-         há miệng ra,

-         để cuốn sách trên bàn của cô,

-         đi đóng cửa lại.

 

Lặp lại mỗi động tác 3-4 lần,

Tổ chức bài học nầy nhiều lần trong ngày và trong tuần, cho đến khi trẻ em không còn do dự.

 

 

17.- Bài học: “Sơ đồ Thân Thể”

 

 

Bài nầy tiếp nối  các bài số 11 và 12. Ở đây, chúng ta chú trọng vào những thành phần thoát khỏi tầm mắt của trẻ em. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, chúng ta vừa ra lệnh, vừa làm trên mình chúng ta, để giúp trẻ em vừa nghe, vừa nhìn, vừa bắt chước.

Sau khi trẻ em đã quen thuộc với cách làm, chúng ta chỉ dùng lời nói mà thôi.

 

“Em hãy lấy tay chỉ cho thầy…..”

-         đầu,

-         mắt,

-         miệng,

-         mũi,

-         tóc,

-         răng,

-         lưỡi,

-         lưng,

-         ót.

 

 

18.- Bài học: “Di chuyển từ nơi nầy đến nơi khác…”

 

Trong giai đoạn đầu, có người phụ tá hướng dẫn.

Sau khi trẻ em đã làm quen với những nơi khác nhau trong lớp và gần lớp, chúng ta bảo trẻ em đến những nơi khác như phòng ăn, phòng tắm, lớp học của cô A, thầy B…

 

Một vài ví dụ:

-         “Em hãy đi đến cửa ra vào…”

-         đến cửa sổ,

-         đến bàn viết của cô,

-         đến phòng tắm,

-         đến hồ bơi,

-         đến nhà bếp…

Khi trẻ em di chuyển, người lớn đưa mắt xem chừng hay là nhờ người khác theo dõi.

 

 

19.- Bài học: “Đi đến một nơi và mang về một đồ vật từ nơi ấy”

 

Ví dụ:

-         Em đi qua phòng ăn, lấy mang về cho cô một cái muỗng.

-         Em ra chỗ treo áo, lấy chiếc mũ của em đem về đây.

-         Em qua lớp của cô C, mời cô qua đây…

-         Con ra ngoài vườn, mời ba vào ăn cơm,

-         Con vào phòng khách, lấy cái ly cho mẹ…

 

 

20.- Bài học: “Phát âm, bắt chước các con vật quen thuộc…”

 

Khi trẻ em líu lo, bập bẹ một cách tự phát, người lớn bắt chước và khuyến khích trẻ em kéo dài thêm, một cách vui thú.

Bắt chước nhưng tiếng mèo kêu, chó sủa, chim hót, em bé khóc…

Tổ chức trò chơi với một vài trẻ em khác, để trẻ em bắt chước nhau, như giả bộ khóc hu hu, cười ha ha, thút thít.

 

                                                      

 

 

Phần thứ hai: Những bài học Bắt Chước

 

Trong phần thứ nhất vừa qua, cũng như trong 2 cuốn sách “Trẻ em Tự Kỷ” (2005) và “Nguy cơ Tự Kỷ” (2006), tôi đã trình bày và giới thiệu nhiều bài học về Bắt Chước. Một cách đặc biệt, tôi đã nhấn mạnh rằng: trẻ em chỉ bắt chước những người mà các em có quan hệ thương yêu và gắn bó với mình.

 

Thay vì lặp lại những điều đã được đề cập với đầy đủ mọi chi tiết, ở đây tôi chỉ nhắc lại một số bài học cơ bản.

 

 

 

21.-Bài học: “Hãy nhìn …”

 

Xem lại bài học số 4 trên đây.

Một trong những triệu chứng cần phát hiện, nơi trẻ em có nguy cơ Tự Kỷ, là những trẻ em nầy không có “liếc nhìn thẳng mặt, mắt chạm mắt”. Ngay từ giây phút đầu tiên, sau khi sinh ra, được mẹ bồng ẵm, trẻ em uốn cong lưng, như vòng cung, và nhìn xuống, thay vì nhìn thẳng vào mắt của mẹ.

 

Cho nên bài học “Hãy nhìn Mẹ…” phải được bắt đầu rất sớm, được chừng nào hay chừng ấy.

 

-         Người mẹ dùng đôi môi làm tiếng động, để giúp con chú ý đến lỗ miệng của mình, cầm tay con đưa lên miệng hôn.

-         Rồi từ lỗ miệng, giúp con đưa tay đụng cằm, đụng tai, đụng tóc… trước khi đưa tay tiếp xúc với mắt mẹ và nhìn mẹ.

-         Ngày ngày lặp lui lặp tới những động tác nho nhỏ như vậy, nhất là khi cho con bú, người mẹ không nôn nóng hay là buồn phiền, chỉ thanh thản xác tín rằng: có gieo thì có gặt, nước chảy đá mòn.

 

Nhiều bậc phụ huynh không ngần ngại lặn suối trèo non, đi tìm những vị thầy và thang thuốc ở tận bốn phương trời cho con, không kể tốn kém và nhọc mệt. Tôi chỉ yêu cầu họ có mặt với con, ngắm nhìn con, vui với con, hạnh phúc với con, cầm tay con để giúp con tiếp xúc với làn da và thớ thịt của mình.

 

Không đợi chờ, không nôn nóng, không phiền trách ai cả…thì thế nào, cơ hồ một bụi tre hay bụi trúc, sau 3 năm trời nằm im lìm dưới lòng đất, mới có thể nhú lên một chồi măng. Từ khi đó, cây tre sẽ lớn lên vùn vụt.

 

Phải chăng đó là bài học mà người lớn, như cha mẹ và thầy cô… phải học, để cho trẻ em, con cái và học sinh của chúng ta có thể học bao nhiêu bài học khác, trong cuộc sống làm người?

 

-         Mẹ đẩy một chiếc xe về phía con, ba cầm tay giúp con đẩy chiếc xe trả về cho mẹ,

-         Đẩy trái banh tròn,

-         Đưa tay vỗ vào mặt trống,

-         Rung chuông nho nhỏ,

-         Quay lúc lắc…

 

Khi trẻ em đã bắt đầu biết làm, người giúp trẻ em chỉ dùng lời để khuyến khích.

 

 

23.- Bài học: “ Học làm những động tác như…”

 

-         mở cuốn sách ra,

-         thả rơi một hạt đậu và ly nhựa,

-         đưa tay vào hộp lấy trái banh,

-         vỗ hay gõ vào mặt bàn, mặt trống,

-         ngồi trong lòng ba, lòng mẹ, lòng cô…tập chồng một khối vuông lên trên khối vuông khác,

-         lấy nắp đậy chiếc hộp,

-         đưa tay sờ lỗ mũi…

-         vẫy tay chào,

-         vỗ hai tay…

 

  

24.-Bài học: “Bước nhè nhẹ  vào vùng ngôn ngữ số I”

 

-         le lưỡi như….

-         há miệng ra to như…

-         thổi tắt ngọn nến như…

-         chu hú miệng như…

-         gây tiếng bập bập với đôi môi như…

-         đưa lưỡi liếm môi trên,

-         liếm môi dưới,

-         liếm môi dưới,

-         le lưỡi qua mặt và qua trái…

 

 

25.- Bài học: “Bước nhè nhẹ vào vùng ngôn ngữ số II”

 

-         Phát âm “A, A…” như…

-         Phát âm “Ô, Ô…”như…

-         I, I, I…

-         Mơ, Mơ, Mơ…

-         Pờ…

-         Bờ…

-         Cờ…

 

 

26.- Bài học: “Bước nhè nhẹ vào vùng ngôn ngữ số III”

 

-         gọi BA, BA,BA… như…

-         gọi Má như…

-         làm bò rống BÒ… như…

-         làm mèo kêu MEO… như…

-         làm gió thổi VÙ, VÙ … như…

-         làm chó sủa Vâu Vâu… như…

 

 

 

                                                       ***

 

 

 

Phần thứ BA: Những bài học về diễn tả và thông đạt

 

 

 

27.- Bài học: “Phát âm theo lời yêu cầu”

 

Suốt một ngày hay một tuần, tập trung vào việc lắng nghe, quan sát và ghi nhận tất cả mọi âm thanh mà trẻ em có thể phát ra khi chơi một mình, cũng như khi trao đổi với người lớn cũng như với bạn bè.

 

Liệt kê một cách đầy đủ  mọi âm thanh, vào một cuốn tập, ghi thêm đầy đủ những điều kiện và hoàn cảnh xuất hiện.

 

Dựa vào đó, chúng ta sẽ lần lượt yêu cầu trẻ em phát ra lại những âm thanh, trong bản liệt kê số 1.

 

Cách làm:

 

-         Giai đoạn Một: Trở lại với bài học bắt chước với tất cả mọi âm thanh để kiểm chứng khả năng của trẻ em. Người lớn làm, trẻ em bắt chước. Kiểm chứng lại từng âm thanh.

-         Giai đoạn Hai: Cô giáo chỉ yêu cầu bằng lời nói, trẻ em thực hiện công việc phát âm.

-         Giai đoạn Ba: Sau độ một tuần làm việc, như đã lên kế hoạch trong giai đoạn Hai, chúng ta làm lại một bản liệt kê số 2, gồm có những âm thanh mà trẻ em phát ra một mình, khi được yêu cầu.

-         Giai đoạn Bốn: Liên tục trong một thời gian, yêu cầu trẻ em phát ra lại các âm thanh, cho đến lúc nhuần nhuyển, với từng âm thanh trong bản số 2 .

 

 

28.- Bài học: “Ghép lại các âm thanh, theo từng cặp thành một từ có ý nghĩa”

 

Ví dụ: BA- MÁ, XE-MÌ…

 

Dựa vào những kết quả ấy, chụp những tấm ảnh của Ba và Má, tìm ra những hình của bánh mì và chiếc xe, để cho trẻ nhìn và phát âm.

 

Cách tổ chức bài học:

-         Chúng ta đưa ra 1 trong 4 tấm ảnh và hỏi: Ai? Cái gì?

-         Khi trẻ em đã học và có khả năng phát âm một cách dễ dàng với mỗi hình ảnh trên đây, chúng ta ghép lại hai hình với nhau, để trẻ em nhìn, đưa tay chỉ và phát âm, như: Ba Má, Xe Mì.

 

 

29.- Bài học: “Gọi tên những đồ dùng, con vật và người quen thuộc, trước mổi hình ảnh”.

 

Mỗi ngày làm việc với trẻ em chỉ độ 5 phút, cho đến ghi trẻ em trả lời một cách dễ dàng 2 câu hỏi, trước mỗi tấn hình: “Ai đây? Cái gì đây?”

 

Từ những bài học nầy, trẻ em sẽ ngày ngày mở rộng thêm những chân trời ngôn ngữ của mình.

 

Cách trình bày bài học và cách hướng dẫn trẻ em vẫn đi theo những giai đoạn, mà tôi đã nhắc lui nhắc tới trong các bài học từ trước đến giờ.

 

30.- Sau khi trẻ em đã nhuần nhuyễn bài học số 29, chứng ta trở về với những bài học Phát Huy TƯ DUY. Từ đây, bài học sẽ có mục tiêu là dùng ngôn ngữ để trả lời những câu hỏi như: Ai đây? Cái gì đây? Người ấy làm gì? Ở đâu? …

 

Tôi hy vọng với 30 bài học và cách tổ chức những giai đoạn đi lên trong mỗi bài học, tôi đã nắm tay mỗi bạn và từ từ cùng đi lên. Đây là lúc, tôi cảm thấy cần rút lui, để mỗi bạn tiếp nối công trình sáng tạo cho con cái và học sinh của mình. Khi nào các bạn gặp khó khăn, trắc trở, hãy “nhìn lên và nhìn xa”. Một cánh cửa vô hình sẽ mở ra. Một vị thầy sẽ xuất hiện từ lòng Đất, lòng Trời hay là lòng Đại Dương.

 

                                              ***

 

 

Con đường đi tới mới bắt đầu.

Con đường đi tới còn rất dài.

 

Nhưng cả người lớn – cha mẹ hay là giáo viên - và trẻ em đang học bài học làm người với nhau, và đã tạo quan hệ gắn bó qua lại, một cách hài hòa.

 

Trong tinh thần và điều kiện ấy, đi mỗi ngày một bước, học mỗi ngày một bài học nho nhỏ… là điều quan trọng. Kỳ dư, chúng ta sẽ đến đâu? Điểm hẹn là nơi mà chúng ta LÀM NGƯỜI và THÀNH NGƯỜI.

 

Trong văn hóa cũng như truyền thống Việt Nam, làm Người cũng còn có nghĩa là làm Đất, làm Đại Dương và làm TRỜI. Phải chăng đó là câu trả lời của những ai mang dòng máu của Con Rồng cháu Tiên, cho những thế hệ con em và cháu chắt ngày mai, đang tiếp nối con đường đi muôn dặm của mình?



Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!