Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

Lm. Jos Cao Phương Kỷ
Mục Lục

Chương I: Linh Mục Đắc Lộ, vị sáng lập chữ quốc ngữ và xây dựng Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam

Chương II: Phương Pháp Suy Luận Đông Tây

Chương III: Nhân Tính

Chương IV: Cứu Độ

Chương V: Tình Ái

Chương VI: Quan Niệm Về Một Nguyên Lý Siêu Việt

Chương VII: Niềm Tin Vào Một Ngôi Vị Thiên Chúa, Thượng Đế, Ông Trời

Chú thích và sách tham khảo

CÙNG MỘT TÁC GIẢ

Tủ Sách Đàm Đạo Tôn Giáo

Tủ Sách Đàm Đạo Tôn Giáo
Chương V: Tình Ái

Tình Ái là điều quan trọng bậc nhất, nơi Thiên Chúa, Nguyên Lý Tuyệt Đối, cũng như trong trong vũ trụ càn khôn, và trong cõi nhân sinh, triết lý, văn học, văn minh, nghệ thuật, v.v. Thật vậy, Thánh Gioan đã định nghĩa bản thể của Thiên Chúa là: “Thiên Chúa là Yêu Thương” (Thư  I Gioan 4:8). Ta thử tưởng tượng... hết mọi trái tim con người đều ra “chai đá”, hoặc thử xóa bỏ mọi lời nói, mọi chữ “Yêu Thương” trong đời sống xã hội, trong văn chương, nghệ thuật…, ta sẽ cảm thấy vũ trụ này trở thành “băng giá”, lạnh lùng, không thể sống nổi! Nhưng khi suy nghĩ về yếu tính của Yêu Thương, ta liền nhận thấy: ngôn ngữ của nhân loại, của các nước trên thế giới này thiếu danh từ để có thể diễn tả mọi cấp bậc, mọi sắc thái, mọi khía cạnh của Tình Ái. Ta dùng cũng một chữ Yêu, Thương, để nói: Thiên Chúa Yêu Thương loài người; cha mẹ Yêu Thương con cái; cặp tình nhân Yêu nhau; hai con chó Thương nhau! v.v. Nhưng Tình Ái giữa Ba Ngôi Vị Thiên Chúa, Tình Ái của Thiên Chúa đối với nhân loại, thì vô cùng khác biệt với Lòng Yêu Thương của cha mẹ đối với con cái. Vả lại, Tình phụ-mẫu cũng khác tình yêu giữa trai-gái, giữa vợ-chồng. Hơn thế nữa, ý nghĩa của chữ Tình Ái của nhân loại khác xa với ý nghĩa của sự yêu thương giữa loài cầm thú.

    Vì ngôn ngữ nhân loại quá nghèo nàn khi cần phân biệt các sắc thái của Yêu Thương, nên danh từ này trở nên hàm hồ, hiểu lầm, lường gạt, lẫn lộn, đã gây đau khổ cho nhiều người. Chẳng hạn, khi một "chàng Sở Khanh" nhỏ nhẹ nói với một "nàng Kiều ngây thơ": Anh yêu em! Có thể nàng rất hí hửng, và tin như vậy! Nhưng khi em gặp “tai nạn”, thì chàng đã cao bay xa chạy rồi, để mặc em một mình mang bầu “tâm sự”, đau khổ! Như vậy, thử hỏi: Anh yêu em, hay Anh yêu anh? Nếu “Anh yêu em” thật, thì phải lo tìm hạnh phúc cho em như chia sẻ, an ủi, khi em gặp khó khăn. Nhưng,“Anh yêu anh”, vì anh đã đánh lừa được em: khi anh đã tìm thỏa mãn nhục dục rồi, thì vứt bỏ em đi như đồ phế thải! Vì ý nghĩa mập mờ, lường gạt của chữ Yêu Thương, nên các triết gia đã phân biệt ra làm hai loại Tình Ái: một là “Tình Ái vị kỉ” (Eros, Erotic là dâm dục=ham muốn vô độ), hai là “Tình Ái vị tha” (Agape). Tình Ái vị kỉ là chỉ nhằm thỏa mãn khoái lạc, dục vọng của mình, coi người khác là một đồ vật để lợi dụng. Trái lại, Tình Ái vị tha là tìm hạnh phúc của người mình yêu! Có khi hy sinh mạng sống, sức khoẻ, thời giờ, tiền bạc, miễn là người mình yêu mến được an vui, như trường hợp cha mẹ ân cần, lo lắng, một cách vô vị lợi cho con cái!

    Trong Chương Năm này, ta sẽ lần lượt bàn luận về quan niệm Nhân Ái trong Nho Giáo (Khổng-Lão), và ý nghĩa của Từ Bi trong Phật Giáo. Sau đó, sẽ đề cập đến quan niệm Bác Ái trong Thiên Chúa Giáo. Để bổ túc cho nhau, ta sẽ tìm hiểu những đặc điểm của mỗi lý thuyết, rồi so sánh các quan điểm, cố gắng nêu lên những mối tương đồng, cũng như những khác biệt, cần san bằng để xích lại gần nhau.

ĐOẠN I.   NHÂN ÁI TRONG NHO GIÁO

    Trong Nho Giáo (Khổng-Lão), lý tưởng cao siêu của các vị hiền nhân quân tử, các vị thánh nhân là: Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ (đọc tắt: Tu, Tề, Trị, Bình). Đây là một trật tự, một tiến trình về Tu Đức, cần phải tuần tự bước đi từng bước một. Giai đoạn trước tiên phải làm là Tu Thân, tức sửa mình, tập luyện các tính tốt, và sửa chữa các tính xấu. Nếu tự bản thân có đức hạnh, thì mói có thể đem lại an vui hạnh phúc cho gia đình, tức Tề Gia. Mình không có, thì lấy gì mà ban phát cho kẻ khác được! Chính bản thân bê bối, say sưa, đàng điếm, hút sách, thì làm sao có thể dạy dỗ, nêu gương sáng cho con cái trong gia đình được? Khi gia đình được êm ấm, thuận hòa, thì dành thời giờ, tài năng góp phần xây dựng quốc gia, mở mang đất nước, tức Trị Quốc. Sau đó, hợp tác với các quốc gia trên thế giới xây dựng Hòa Bình cho nhân loại. Nhưng trước hết và trên hết vẫn là phải Tu Thân đã. Vì tầm quan trọng lớn lao, và cốt yếu của việc Tu Thân Tích Đức, nên người xưa có câu: “Từ vua tới dân, mọi người phải lấy việc Tu Thân (sửa mình) làm gốc (Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ Tu Thân vi bản, (coi Sách Đại Học, tiết 6).

    Hơn nữa, việc Tu Thân cần dầy công tập luyện mỗi ngày. Bởi vậy, phép Tu Thân đề ra năm Đức Hạnh thuờng xuyên phải thực hành hằng ngày, gọi là “Ngũ Thường”. Đó là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. NHÂN là lòng yêu người. NGHĨA là lòng ngay thẳng làm điều tốt, và tránh điều xấu. LỄ là theo đúng khuôn phép, kỷ luật. TRÍ là sự mở mang trí tuệ, là thông minh, khôn ngoan. TÍN là thật thà, tin cậy, tín nhiệm nhau.

    Đối với Nho Giáo, trong năm Đức Hạnh, thì NHÂN đứng đầu và là căn nguyên của các Đức Hạnh khác. Sau đây, ta sẽ bàn luận về: Đạo Nhân là gì? Đạo Nhân theo phái Tâm Học; Đạo Nhân liên hệ đến Ngũ Thường như thế nào? Mạnh Tử và Mặc Tử đối với Đạo Nhân' và Đạo Lão đối với Đạo Nhân như thế nào?

A.   ĐẠO NHÂN LÀ GÌ?

    Theo nghĩa thông dụng, nhân là người. Ở đây, chữ NHÂN trong "Đạo Nhân của Nho giáo", đồng âm nhưng dị nghĩa. Theo cách viết chữ nho “NHÂN”(        ) gồm chữ nhân (   ) là người, và chữ nhị (   ), là hai. Do đó, Yêu Thương được định nghĩa là mối tình trao đổi giữa hai người, hai nhân vị. Tình Ái thật, không thể đơn phương, cô độc. Do đó, NHÂN, chính là mối tương quan giữa người với người. NHÂN làm nên bản tính của con người, vì con người là con vật có xã hội tính, có liên hệ với người khác. Một người cư xử một cách “bất nhân”, là một kẻ cô độc, không còn mối giao hảo tốt đối với người chung quanh. Ăn ở “bất nhân”, biểu lộ sự tàn ác, phản bội, chối bỏ bản tính cố hữu của nhân loại. Vì thế, không còn là người nữa, vì đã mất tính người! (105).

    Do đó, “NHÂN” được định nghĩa là lòng Nhân Ái (Yêu Nguời), là lòng khoan dung, độ lượng, tha thứ. “NHÂN”, chính là “ĐỨC” của Trời-Đất tràn lan khắp vũ trụ. Vạn vật được sinh sôi nẩy nở, cỏ cây hoa lá sum sê, là do Tình Thương vô biên của Vị Chúa Tể càn khôn ban cho. Cũng chính Đấng Thượng Đế đã phú bẩm “Đức Nhân Ái” vào bản tính của mỗi người chúng ta. (106).

    Muốn thực thi lòng Nhân Ái, thì cần phải Trung thực, Trung thành với bản tâm, tức Lương Tâm của mình: Đó là ý nghĩa của chữ “Trung” . Lại phải biết tôn trọng quyền lợi và sự công bằng đối với kẻ khác: chữ “Thứ” (107).

    Đức Khổng Phu Tử đã dạy người đời: hãy lấy lòng mình làm mẩu mực kích thước để đo lòng người. Do đó, Ngài đã đặt ra một khuôn vàng thước ngọc trong việc xử thế như sau: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều gì mình không muốn, thì cũng đừng làm (điều đó) cho kẻ khác). Hoặc nói một cách tích cực: Điều gì mình muốn, thì cũng hãy làm cho người ta. Nếu mình không muốn người ta bỏ vạ, cáo gian cho mình, thì đừng bao giờ nói xấu, bội nhọ người khác. (108).

    ĐẠO NHÂN gắn liền với bản tính con người, nên bất cứ ai cũng có thể luyện tập và thực hành lòng Nhân Ái được. Đạo Nhân thuộc về nhân bản, nên càng làm sáng tỏ Đạo Nhân tiềm tàng trong con người, thì nhân tính của mình càng phát huy tốt đẹp. Đạo Nhân không phải là một ưu quyền dành cho một số người quí phái, giàu sang ra tay thi ân cho hạng tiểu nhân, nghèo khổ. Trái lại, đã là người, thì bất cứ sang hèn, giầu nghèo, ai cũng có thể trở nên bậc Thánh Hiền được, nếu quyết tâm tu luyện Đạo Nhân.

    Hơn nữa, Người có lòng Nhân Ái, là người biết yêu thương đồng loại, và giúp đỡ tha nhân phát huy Đạo Nhân ở nơi họ. Vừa vun trồng Đạo Nhân ở nơi mình, vừa hỗ trợ người khác tu luyện Đạo Nhân nơi họ, chính là cộng tác với Trời-Đất để hoàn thiện vũ trụ này càng thêm tốt đẹp! Do đó, nhờ thi hành Đạo Nhân, mà con người có thể hợp tác, phối kết với Trời: Đó là ý nghĩa của câu:” Thiên Nhân hợp nhất”, hoặc “Tam Tài” (Thiên Địa Nhân) Tuy “Trời”, hiểu theo nghĩa Hình Nhi Thượng, là một Nguyên Lý Tuyệt Đối, là Thiên Chúa Siêu Việt, còn nhân loại là loài thụ tạo hữu hạn, nhưng có thể nói: lòng Nhân Ái, hay Tình Yêu Thương vị tha của con người, chính là nơi gặp gỡ, là điểm “hội tụ”(locus)giữa Đấng Vô Biên và loài tương đối, hữu hạn. (109).

    Đạo Nhân đứng đầu các Đức tính khác trong Ngũ Thuờng: Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đều phát sinh từ Nhân. Bởi vì, NGHĨA là Nghĩa Vụ phải làm, vì hợp với lẽ phải, hợp với Lương Tâm. Phải làm, vì là điều chính đáng, chứ không phải vì lợi lộc gì. Do đó, “Nghĩa” và “Lợi” là hai điều đối nghịch nhau. Nghĩa vụ mà mọi người phải làm một cách vô tư, vô vị lợi là gì? Chính là thực thi lòng Yêu nguời một cách cụ thể. Mỗi người theo đúng nghĩa vụ riêng của mình mà thực hành không thiên lệch, không thiếu sót, chính là thi hành Đạo Nhân. Như cha mẹ thi hành đúng nghĩa vụ của bậc cha mẹ: đó là yêu thương và nuôi dưỡng con cái. Con cái thi hành đúng bổn phận làm con: đó là yêu mến, thảo hiếu đối với cha mẹ. “LỄ” là gì? Chữ “Lễ”, nghĩa là là Lễ Phép, là cách thức tiếp nhân xử thế cho đúng với thuần phong mỹ tục. “Lễ” liên quan mật thiết với lễ nghi tôn giáo, tế tự Thần Thánh (Lễ Giáo). Nhờ chấp hành nghiêm chỉnh và một cách kính cẩn các lễ nghi phụng tự, và chân thành tuân giữ các lễ phép trong cách xã giao, mà nhân cách con người đuợc thanh cao, nhã nhặn, do đó, lòng Nhân Ái có cơ hội phát huy, tốt đẹp.

B.   ĐẠO NHÂN THEO PHÁI TÂM HỌC,VÀ PHÁI LÝ HỌC

    Theo Lịch Sử Triết Học Trung Hoa, Đạo Nhân Ái của Đức Khổng Phu Tử được khai triển theo chiều hướng siêu hình và thần bí hơn, do trào lưu triết lý của phái Tâm Học của Lục Cửu Uyên (1139-1193) và Vương Thủ Nhân, tức Vương Dương Minh (1472-1528). Lý tưởng cao siêu của một vị hiền nhân quân tử luôn vẫn là: “Thiên Nhân Hợp Nhất”. Nhưng làm thế nào để phối kết với Trời? Vương Dương Minh đã căn cứ vào câu trong sách Đại Học để tìm ra điểm “hội tụ” (locus) giữa hữu hạn (người) và Đấng Vô Biên: “Đại Học chi Đạo, tại minh Minh Đức, tại Thân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện” (Sách Đại Học, tiết 1). Vương Dương Minh quảng diễn câu trên như sau: Đường lối của Sách Đại Học dạy ta phải làm “ba cương lĩnh” là: phải làm sáng Đức Sáng (minh Minh Đức), phải yêu người (Thân Dân), và dừng lại nơi tốt nhất (Chí Thiện).

    a) Tại minh Minh Đức. “Đức Sáng” (Minh Đức), chính là Lương Năng, Lương Tri, Lương Tâm trong sáng, nguyên tuyền của bản thể nhân loại. Đức Sáng này khiến ta phân biệt được Thiện-Ác. Thiện thì theo, Ác thì tránh xa. Do đó, Minh Đức có thể sánh ví như một “viên ngọc”, nhưng đã bị mờ ám vì bùn đất bám vào. “Bùn đất” đây là các mối tình vị kỷ, tư dục đã che khuất trí Lương Năng. Vậy công phu tu luyện là khử trừ các tình tư dục, tham lam, vị kỷ…, để cho Lương Tâm sáng chói như thuở ban sơ.

    b) Tại Thân Dân. Tình tư dục, tính vị kỷ đã ngăn cách, che khuất, khiến người ta không thể hợp nhất với người khác được. Vậy chỉ có một cách để đạt tới sự phối kết với Trời là “Thân Dân” (Yêu tha nhân). “Minh Đức” được sáng chói cũng là nhờ Đức Nhân Ái (yêu người).

    c) Tại chỉ ư Chí Thiện. Sự Thiện Tuyệt Hảo là gì? Chính là “Minh Đức” được sáng chói, là lòng “Nhân Ái” bao la, thương yêu mọi người. Đó là mẫu mực cao thượng nhất mà mọi người, mọi vật phải tuân theo để trở nên bậc Thiện Toàn. Nếu còn một chút vẩn đục nào của tình tư dục, của óc bon chen hẹp hòi pha trộn vào, thì sẽ khiến sự Thiện Tuyệt Hảo đó lu mờ đi. (110).

    Các nhà Nho thích dùng câu truyện “đứa trẻ nhỏ sắp sửa rơi xuống giếng”, để làm tỷ dụ minh chứng Đức Nhân Ái vẫn tiềm tàng trong Lương Tâm, Lương Tri mỗi người. Bởi vì, bất cứ ai, bất chợt nhìn thấy một đứa bé đang lăm le chạy tới bờ giếng sâu, liền hoảng hốt lập tức chạy tới kéo nó lại! Đó là phản ứng tự nhiên bộc phát của trí Lương Năng biết phân biệt: điều “Phải”, phải làm, điều “Trái”, phải tránh. Đó cũng là do lòng Nhân Ái, tình liên đới bao quát mọi loài trong trời đất. Giết hại một bào thai, hay hành hạ một con vật, một cách dã man, vô cớ, cũng đều làm ta thương xót! Nhưng điều quan trọng là ta phải hành động cấp kỳ, không do dự, tính toán, trì hoãn. Phải hành động ngay, một cách tự nhiên, vô vị lợi, theo tiếng Lương Tâm thúc bách. Nếu ta ngập ngừng suy tính thiệt hơn, thì sẽ bị tình tư dục, vị kỷ sai khiến và làm sai lạc trí Luơng Năng. Chẳng hạn, nếu ta dừng lại, suy nghĩ xem đứa bé đó là con nhà ai, nó có phải là cháu ta, hay nó là con nhà hàng xóm, thù ghét ta, rồi lúc đó ta mới chạy lại cứu nó hay là không cứu nó. Những hành vi do óc tính toán đều là vị lợi, vị kỷ mà thôi! Cứu nó để được khen thưởng, vì chỗ thân tình, hay không cứu nó để trả thù, vì là con hàng xóm ghét ta, cả hai thái độ đó đều không thích hợp với Đạo Nhân Ái!

     Theo nhà Lý Học Chu Hi (1130-1200), Ngũ Thường, tức là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, thuộc về phần “LÝ”, thuộc bản tính nhân loại. Như đã phân tích ở đoạn trên về bản tính nhân loại, Chu Hi cho rằng: phần “LÝ” bao giờ cũng Tốt, tức là lòng thương người' nếu có điều gì Xấu trong con người, là do “KHÍ” mà ra. Như vậy, Chu Hi đã giải thích rõ ràng hơn Mạnh Tử về bản tính nhân loại. Khi Mạnh Tử nói: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”, là mới nói về phần “LÝ” của bản tính đó, nhưng chưa đả động đến phần “KHÍ”, tức là phần bản tính đó bị “ô nhiễm” bởi tính hư tật xấu. Chu Hi đã nhận định về bản tính con người đầy đủ hơn Mạnh Tử.

     Nói tóm lại, theo các nhà Tâm Học và Lý Học, Đạo Nhân giữ một địa vị nồng cốt trong Nho Giáo, vì bao gồm mọi lãnh vực của thực tại như luân lý, siêu hình, và vũ trụ quan. Chẳng hạn, Đạo Nhân đề cập đến mối tình vị tha giữa người với người. Đạo Nhân dạy về mối liên hệ giữa nguời và vũ trụ (môi sinh). Ngoài ra, Đạo Nhân đề cập đến sự Sống của Vũ Trụ, của Thực Tại làm nên Vũ Trụ như ta thấy. Do đó,”NHÂN” là “LÝ”, là “THÁI CỰC”, là “TÂM” của Vũ Trụ, và là CHÂN NGÃ (True Self). “NHÂN” luôn là định nghĩa của yếu tính của con người chính thật (true man).

C.   MẠNH TỬ VÀ MẶC TỬ ĐỐI VỚI ĐẠO NHÂN

    Theo Mạnh Tử (372-289, trước Chúa Cứu Thế), con người sinh ra được phú bẩm bốn điều thiện hảo sơ thủy: biết thuơng xót, biết hổ thẹn, biết khiêm nhường, biết điều phải/trái. Lòng thương xót là đầu mối của đức Nhân; lòng hổ thẹn là đầu mối của đức Nghĩa; lòng khiêm nhượng là đầu mối của đức Lễ; lòng phải/trái là đầu mối của đức Trí (Mạnh Tử IIa, 6). Trong bản tính nguyên thủy của con người, đã tiềm tàng “bốn đầu mối” (tứ đoan), và nếu khéo phát triển, vun trồng, thì sẽ nẩy nở thành “tứ Đức” là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Do đó, Mạnh Tử đã quả quyết: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Nhờ những đức tính thiên bẩm, căn bản đó mà con người được cao quí hơn loài cầm thú. Mạnh Tử cũng nói: Người có đức Nhân thì yêu thương người khác (Mạnh Tử IVb, 28).

    Mạnh Tử gán cho mình trách vụ phải chống lại học thuyết của Dương Chu (Lão Giáo), và học thuyết” KIÊM ÁI”của Mặc Tử (479-381, truớc Chúa Cứu Thế). Theo Mặc Tử, Nhân Nghĩa phải hiểu là: Yêu thương hết mọi người như nhau và bằng nhau, không phân biệt người gần, người xa (thân/sơ). Đức Nhân phát xuất do lòng hào hiệp vị tha phải bao bọc, “kiêm nhiệm” mọi người thân sơ. Vì theo Mặc Tử, “KIÊM ÁI” là yêu bạn cũng như yêu mình, yêu cha mẹ bạn cũng như cha mẹ mình, không có phân biệt. Nếu mỗi người coi tha nhân như chính mình, nếu mỗi nhà, mỗi nước coi nhà khác, nuớc khác như nhà mình, nước mình thì làm gì còn tranh giành, thù hận? Mặc Tử cho quan niệm “Kiêm Ái” của Ông là do Thiên Ý muốn, và đã được các vị hiền nhân quân tử thực hành. Nếu đem áp dụng một cách triệt để, chủ trương Kiêm Ái sẽ tạo an vui, hạnh phúc cho dân nước. (111).

    Mạnh Tử đã công kích học thuyết của Dương Chu (Lão giáo), và lý thuyết Kiêm Ái của Mặc Tử. Mạnh Tử nói: Họ Dương vị ngã, ấy là không vua. Họ Mặc Kiêm Ái, ấy là không cha. Không cha, không vua, ấy là cầm thú. Đó là tà thuyết lừa dối dân, làm bế tắc Nhân Nghĩa (Mạnh Tử IIIb, 9).

    Sự khác biệt giữa Nho gia và Mặc gia hệ tại chỗ nào?  Nho gia chủ trương thuơng người có “thứ bậc”, thân sơ, còn Mặc gia thì không phân chia thứ bậc hay gần xa. Theo Mạnh Tử, yêu thương người thân thiết trong gia đình, họ hàng bà con “trước” người ngoài: đó là tình tự nhiên, không có gì đáng trách cả! Nên lấy cách cách đối đãi yêu thương trong gia đình làm mẫu mực cho tình yêu thương đối với người ngoài, xa lạ. Nên nới rộng lòng thương người thân trong gia đình cho nó bao trùm cả người ngoài nữa: đó là thi hành lòng “Trung” và “Thứ” mà Đức Khổng Tử vẫn chủ trương, tức cũng như thi hành Đạo Nhân. Săn sóc người già của ta cho tới người già của người khác. Thương yêu trẻ con của ta cho tới trẻ con hàng xóm (Mạnh Tử Ia, 7). (112)

    Một điểm khác biệt nữa giữa Nho gia và Mặc gia, là câu hỏi: Tại sao ta nên thực hành Đạo Nhân Nghĩa? Mặc gia đã trả lời như sau: Ta phải thực hành Nhân Nghĩa, vì đó là do Thiên Ý, và vì ích lợi chính trị cho xã hội (utilitarianism). Ai không thương hết mọi người như nhau, và bằng nhau sẽ bị “Trời”, và nhà cầm quyền trừng phạt! Trái lại, Nho gia chủ trương: ta phải thi hành đạo Nhân Nghĩa, vì là điều do bản tính tự nhiên của con người đòi hỏi như vậy!

D.   ĐẠO HỌC (LÃO GIÁO) ĐỐI VỚI ĐẠO NHÂN

    Trong khi Nho giáo chủ trương “nhập thế”, thì Lão giáo lại chủ trương “xuất thế”. Do đó, Lão tử, Dương Chu, Trang tử, và các mộn đệ (đạo gia) công kích đạo Nhân, và Ngũ Luân, Ngũ Thường của Nho gia. Theo trào lưu triết học Trung Hoa, thì các đạo gia chủ trì một lối sống huyền bí noi theo sự vận hành của Nguyên Lý Siêu Việt của vũ trụ, mà họ “tạm” gọi là ĐẠO. Bởi vậy, lý tưởng thần bí của một đạo gia là cố gắng sống hòa hợp, hợp nhất với “Đạo”! Vì Đạo là Nguyên Uỷ phát sinh vạn vật, nên hợp nhất với Đạo là kết hợp với mọi người, mọi vật trong trời đất. (113).

     1.  “Xuất Thế”: Nếp Sống Phóng Khoáng Tự Do

    Các đạo gia suy tư và chiêm niệm về Đạo của Trời Đất, và thấy Đạo lúc nào cũng giữ một mực TRUNG- HÒA, nghĩa là không thái quá, không bất cập. Đạo luôn vận hành một cách cân đối và quân bình. Vì muốn “hợp nhất với Đạo”, và thụ hưởng tự do cá nhân, và phóng khoáng, không bị ràng buộc vào bất cứ một thể chế luật lệ nào do xã hội đặt ra, nên các đạo gia đã tự tạo cho mình một nếp sống ẩn dật, xa lánh nơi phồn hoa đô thị náo nhiệt.

    Về phương diện thể xác, các đạo gia đã tìm cách bảo vệ sức khoẻ, dinh dưỡng theo thiên nhiên để được khoẻ mạnh sống lâu. Việc tìm kiếm các vị thuốc bổ, các thảo mộc, luyện các loại kim, là những phát minh đầu tiên của nền khoa học vật lý và y khoa của Trung Quốc. Về phương diên Tu Thân, các đạo gia cố gắng rập theo khuôn mẫu của sự vận hành của Nguyên Lý Đạo, lúc nào cũng Quân Bình, Trung Hòa. Những đức tính như: vô vi, hồn nhiên, giản dị, đơn sơ, chất phác, khiêm nhu, thanh bần, tiết dục, quả dục…, rất được các đạo gia công phu tu luyện.

    VÔ VI, không có nghĩa là làm biếng, không làm gì hết, nhưng là làm vừa phải, đúng mức, vì làm quá, sẽ có hại! VÔ VI, cũng có nghĩa là làm một cách tự nhiên, vui vẻ, không bị ép buộc, miễn cưỡng. Các đạo gia ca tụng đời sống của con trẻ, vì chúng đơn sơ, hồn nhiên, chất phác, không kiểu cách giả tạo.

    KHIÊM NHU, là đức tính cao quí nhất vì hợp với đường lối Trung Hòa, quân bình của Đạo. Do đó, KIÊU NGẠO là tội ác lớn nhất, vì là thái độ cực đoan, thiếu quân bình, thiếu điều hòa.

    THANH BẦN, là tâm hồn trống rỗng, thảnh thơi, không bị dục vọng quấy động. Vì không ham tiền bạc, danh vọng, chức quyền, nên các đạo gia hành động một cách vô vị lợi. Lão Tử chủ trương: người ta phải biết kiềm chế dục vọng, vì tìm cách thỏa mãn lòng ham muốn, khiến con người càng bận tâm lo âu. Ham hiểu biết nhiều, thì ra công tìm kiếm, không bao giờ cảm thấy thỏa trí được. Do đó, càng đặt ra các luật lệ, thì càng làm cho con người mất tự do, cuộc đời thiếu tự nhiên, và thêm phiền toái.

    Để tâm trí hoàn toàn trống rỗng, thanh thản, các đạo gia đề xướng ra phép tu thân, gọi là “Tọa Vong”, và “Tâm Trai”. Tọa vong là ngồi suy niệm để tâm tâm trí quên hết mọi sự mọi vật mọi người ở trên đời và ngay ở trong tâm trí mình. “Tâm trai” (chay lòng) là để lòng “chay tịnh”, không còn vương vấn gì cả. Do đó, tâm thần hoàn toàn trống không, thanh tịnh, không còn phân biệt cái “tôi” và cái “không-phải-tôi”, nghĩa là vượt lên mọi tốt-xấu, đẹp-không đẹp... Đấy chỉ là những cặp tương đối, không phải là sự thật Tuyệt Đối. Sự Thật Siêu Việt, chính là sự hợp nhất với Đạo, vì mọi vật, mọi loài, dầu khác nhau, nhưng đều bởi Đạo mà sinh ra, và đều hợp nhất với nhau.

     2.  Công Kích Ngũ Thường, Đạo Nhân Của Nho Giáo

    Vì chủ trương một đường lối Tu Thân đặc biệt, là hoàn toàn tự do, và “xuất thế”, nên các đạo gia đã chống lại cách tu thân của nho gia, đặt nền tảng trên Ngũ Thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín(114).

    Người có cuộc sống cao siêu, hợp nhất với “ĐẠO” và “ĐỨC” của Trời Đất thì vượt ra ngoài vòng Tương Đối như phân biệt: Thiện-Ác, Đẹp -Xấu, v.v. Lão Tử viết: “Nếu thiên hạ đều biết là đẹp, ấy là có xấu. Thiên hạ biết thiện là thiện, ấy là có bất thiện (ch.2). Vì vậy, Lão Tử khinh bỉ Ngũ Thường của nho gia, và Đạo Nhân. Theo Lão Tử, những đức tính ấy chỉ là suy đồi của “Đạo”và “Đức”. Lão Tử viết: Mất Đạo mới có Đức. Mất Đức mới có Nhân. Mất Nhân mới có Nghĩa. Mất Nghĩa mới có Lễ. Lễ là suy đồi của Trung Tín, bước đầu của rối loạn (Ch.38). (115).

    Đôi khi các đạo gia đã cắt nghĩa những lời giảng dạy của Khổng Tử theo quan điểm thần bí của họ. Chẳng hạn, Trang Tử đã tưởng tượng ra một cuộc “đối thoại giả tưởng” giữa Đức Khổng và đệ tử thân tín của Ngài là Nhan Hồi. Một hôm, Nhan Hồi thưa với Đức Khổng rằng: “ Hồi đã tiến” (về mặt tu thân). Đức Khổng hỏi lại: “Thế nghĩa là gì?” Hồi trả lời: “Hồi quên Nhân Nghĩa”. Đức Khổng nói tiếp: “Khá đấy, nhưng còn chưa đủ”. Ngày khác, Nhan Hồi lại đến gặp Đức Khổng và thưa: “Hồi đã tiến”. Đức Khổng hỏi lại: “Thế nghĩa là gì? Hồi thưa: “Hồi quên Lễ Nhạc”. Đức Khổng nói: “Khá đấy, nhưng còn chưa đủ”. Một ngày khác nữa, Nhan Hồi lại đến gặp Đức Khổng và thưa: “Hồi đã tiến”. Đức Khổng hỏi: “Thế nghĩa là gì? Hồi thưa: “Hồi ngồi quên”. Đức Khổng biến sắc mặt, hỏi: “Thế nào là ngồi quên?” Nhan Hồi thưa: “Chi thể bất động, tâm trí lu mờ, buông thân thể, cất thông minh. Trở nên hợp nhất với Vô Biên. Đó là “ngồi quên””. Đức Khổng nói: “Trở nên một với Vô Biên (Thái Cực, Đạo), nên không còn thích hay không-thích. Trở thành một với “Đại Thông” (Biến Hóa), nên chỉ thuận theo sự biến dịch, vận chuyển của vũ trụ. Nếu đã thực hiện được những điều đó, Khâu (tên tục Đức Khổng) đây, cũng xin theo gót”(116).

 TOÁT LƯỢC MẤY ĐẶC ĐIỂM

    1. Đối với Nho Giáo, việc Tu Thân rất quan trọng. Trong việc Tu Đức, cần tuân giữ Ngũ Thường, là năm đức hạnh luân lý tự nhiên: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

    2. Trong Ngũ Thường, thì “NHÂN”, tức Đạo Nhân là đứng đầu, và là nguồn gốc sinh ra các đức tính khác.

    3. “NHÂN”, là Nhân Ái, là Yêu Người. Đức Nhân làm nên bản tính của con người. Do đó, ăn ở “bất nhân”, là độc ác, là trái với bản tính tự nhiên của loài người. Đức Nhân làm nên mối liên hệ, tương quan giữa người với người. Do đó, lấy “lòng mình” mà đo “lòng người”: Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân(117).

    4. Theo nghĩa triết lý, siêu hình của phái Tâm Học và Lý Học, thì “Nhân” là “Đức” của Trời Đất tràn lan khắp vũ trụ. “Nhân” là sự Sống, là Tình Thương, là “Lý”, là “Thái Cực” của vũ trụ. Nhờ “Nhân” mà con người có thể phối kết với Trời: “Thiên Nhân Hợp Nhất”. Theo Vương Dương Minh, nhờ “Thân Dân”, tức lòng Nhân Ái, mà làm cho “Minh Đức”, tức Luơng Tâm được sáng chói, không bị tình tư dục làm mờ ám đi(118).

    5. Mặc Tử chủ trương “KIÊM ÁI”, nghĩa là yêu thương hết mọi người như nhau và hoàn toàn bằng nhau, không phân biệt gần xa, thân sơ, người trong gia đình, họ hàng hay người ngoài. Trái lại, theo Nho gia, đặc biệt theo Mạnh Tử, thì tình yêu thương có thứ bậc, nghĩa là yêu nguời trong nhà trước yêu người ngoài. Đó là sự tự nhiên, theo bản tính con người, nên không có gì sai quấy, đáng trách cả.

    6. Lão Giáo hay Đạo Giáo chủ trương “xuất thế”, cá nhân hoàn toàn tự do không bị ràng buộc bởi bất cứ lề luật luân lý hay luật lệ. Do đó, các đạo gia chống lại Lễ Giáo, Ngũ Thường của Nho giáo, mà họ cho là “nhân tạo”, không do thiên nhiên. Lão giáo thích trở về đời sống tự nhiên và thoát tục để chiêm niệm Nguyên Lý của vũ trụ, gọi là “Đạo”. Các đạo gia thích tu luyện những đức tính như: Trung Hòa, Quân Bình, Khiêm Nhu, Thanh Bần, Đơn Sơ, Vô Vi, Tiết Dục, v.v. (119).

ĐOẠN II.   TỪ BI TRONG PHẬT GIÁO

     Chủ đích của Đức Thích Ca Mâu Ni là tìm một con đường giải thoát cho nhân loại đang trầm luân trong bể khổ, ở đời sống hiện tại. Vì thế, khi còn sinh thời, Ngài thường sánh ví mình như một lương y, tìm cách cấp cứu một bệnh nhân đang đau đớn, quần quại rên la. Ngài không muốn suy luận xa xôi, nhưng tìm ngay phương thế thực tiễn, tìm thuốc hiệu nghiệm, để cứu bệnh nhân trong cuộc sống hiện tại. Do đó, nền tu đức của Phật giáo xây trên kinh nghiệm sống hiện tại, mang tính chất thực tiễn, không suy luận trừu tượng. Điều mà mọi người thấy trước mắt là: Đời là Khổ. Cho nên, vấn đề cấp bách là làm sao diệt được Khổ! Đức Phật thích dùng ví dụ sau đây để giải nghĩa lập trường: Khi ta thấy một người bị trúng mũi tên độc vào cạnh suờn, thì phải tìm cách thức rút mũi tên ấy ra liền, không mất thời giờ suy luận dài dòng, hoặc tìm giải đáp những câu hỏi xa xôi như: ai làm ra mũi tên độc? ai đã bắn mũi tên ấy? mũi tên từ đâu tới? (120).

     Sau đây, ta thử tìm hiểu một cách trung thực về mấy quan điểm như: Nền Luân Lý, và phuơng pháp Tu Hành của Phật Giáo là gì? Nhân đức Từ Bi là gì? Ai là Hiện Thân của đức Từ Bi? Thế nào là Tâm-Bình-Đẳng (Upekkha), “Bố Thí Ba-la-mật” là gì?

A.   LUÂN LÝ VÀ TU ĐỨC CỦA PHẬT GIÁO

     Luân Lý Phật Giáo dựa trên kinh nghiệm sống hiện tại, nên mang tính chất thực tiễn, và gần với luật luân lý tự nhiên của con người. Đã là người có Lương Tâm, Luơng Tri, ai lại chẳng động lòng thương xót trước những cảnh khổ đau, ai lại chẳng gớm ghét cảnh giết chóc, thù hận. Vì thế, “Ngũ Giới” trong Luân Lý Phật Giáo dễ được chấp nhận. Ngũ Giới được diễn giảng dưới hình thức tiêu cực, ngăn cấm như:

1. Cấm sát sinh: cấm giết hại người và vật cách vô cớ

2. Cấm đạo tặc: tham lam bất chính

3. Cấm tà dâm: chiếm đoạt tình yêu của kẻ khác

4. Cấm vọng ngữ: xuyên tạc, vu khống, dối tra

5. Cấm tửu: những thứ kích thích loạn tâm, loạn trí(121).

     Cũng phải tránh “tam độc”, là ba thứ thuốc độc làm ung thối bản tính tốt của con người. Ba thứ độc đó là: THAM, là lòng tham lam vô độ. SÂN, là sự thù ghét. SI, là ngu si dốt nát, đần độn. Trong thập nhị nhân duyên, tức mười hai duyên cớ nối nhau để phát sinh đau khổ, thì “SI”, tức ngu si, ngu muội, cũng gọi là “ngộ” (sai lầm), là Vô Minh, đứng đầu phát sinh mọi cơ duyên khác. Do đó, căn bản trong phương pháp tu hành của Phật giáo là “phá ngu”, hay “giác ngộ” (ngộ= hiểu biết), nghĩa là nhờ sự suy niệm lâu giờ, lâu ngày mà hiểu biết được cái chân tính, cái bản ngã thật (Chân Ngã) của con người (122).

    Muốn được giác ngộ để tìm ra chân tính của mình, người phật tử cần cố công tự mình tu luyện, để tự cứu lấy mình, vì không ai ban ơn giáng phúc, hay cứu vớt thay mình được. Bởi đó, tôn chỉ trong việc tu thân, tu đức được các bậc thánh nhân La Hán (Arhat), thuộc phái Tiểu Thừa (Hina-yana) tuân theo là Tự Độ, Tự Giác: tự mình cứu độ lấy mình, tự mình hiểu biết chân tính để đem lại lợi ích cho mình! Ngày nay, trong các tu viện của phái Theravada (Tiểu Thừa), vẫn còn tập luyện theo cách tu “Tự Giác”. Các tu sĩ tuân theo kỷ luật rất khắc khe, khắc khổ, chuyên chú niệm kinh để diệt dục, mong tự thoát khỏi vòng luân hồi nghiệp báo.

    Trong cách tu hành tu đức của Phật Giáo, còn có phái Đại Thừa (Maha-yana) chủ trương: “Tự Giác nhi Giác Tha”: tự mình cứu độ lấy mình nhưng cũng phải cứu độ, giác ngộ người khác nữa! Làm ích cho mình chưa đủ, còn phải ra tay giúp đỡ kẻ khác. Bởi vậy, các thánh nhân trong giáo phái này gọi là Bồ Tát (Bodhisattva), sau khi đã được giác ngộ rồi, nhưng chưa nhập Niết Bàn, mà còn ở lại để “phổ độ chúng sinh”. Các vị Bồ Tát không muốn hưởng lợi ích riêng cho mình, nhưng còn muốn giúp ích cho đời nữa! Do đó, lý tưởng của các Bồ Tát là đạt tới sự thánh thiện toàn hảo bằng cách thực hành đức TỪ BI (Thí Xả)

    Nên nhớ rằng: hai giáo phái Tiểu Thừa và Đại Thừa vẫn đồng một quan điểm với nhau về quan niệm Cứu Độ, nghĩa là: Tự Độ (Self-Salvation), tự mình cứu lấy mình, kể cả Đức Phật cũng không thể ban ơn gì cho mình được! Đức Phật và các vị LaHán, Bồ Tát chỉ có thể khuyên bảo, làm gương sáng cho mình bắt chước mà thôi! Nhưng phân biệt Tiểu Thừa, vì phái này chỉ chuyên lo về việc tu thân cho chính mình trong các tu viện, còn phái Đại Thừa, chẳng những “tự giác” cho mình, còn lo “giác tha”, tức giảng đạo cho người khác nữa!

B.   ĐỨC TỪ BI LÀ GÌ?

 Danh từ TỪ BI diễn tả hai ý niệm: một là Maitri, Maitrey (sanscrit) hay Metta (pali), nghĩa là lòng tốt, tử tế trong cách đối đãi với tha nhân; ý niệm thứ hai là Karuna, nghĩa là lòng thương xót, thương hại vì nhìn thấy sự đau khổ của nhân loại. Quan niệm Từ Bi còn bao hàm một nghĩa thứ ba nữa là Dana, nghĩa là bố thí, “thí xả”, giúp đỡ người đau khổ. Làm phước, Bố thí là kết quả của lòng Từ Bi mà ra(123).

    Đức Từ Bi là một đức đứng đầu các đức tính khác, là nền tảng, và tinh hoa của Phật Giáo, dầu theo phái Tiểu Thừa hay Đại Thừa. Do đó, muốn trình bày cho thấu triệt ý niệm của Phật Giáo về “Đại Từ Bi, Năng Hỉ Xả”, thì cần có mối Hảo Tâm (metta=maitri), tức tình yêu thương đối với muôn loài muôn vật, nhân loại cũng như loài cầm thú. Lại cần có lòng thương xót, Trắc Ẩn (karuna) đối với những cảnh ngộ đau thương do luật Nhân-Quả gây ra, rồi lòng độ luợng ra tay giúp đỡ, bố thí (dana) thật sự. Ngoài ra, người phật tử còn phải thực hành đức thiện cảm, biết chia vui sẻ buồn với tha nhân (mudita), không giả hình, không ganh ty. Đức Từ Bi là một phương cách dẫn tới cứu độ, cho nên, theo tương truyền, trước khi nhập Niết Bàn, chính Đức Phật đã căn dặn, và truyền lệnh cho các đệ tử tuân giữ và thi hành (124).

C.   CÁC VỊ THẦN HIỆN THÂN CỦA ĐỨC TỪ BI

    Như đã nhận định ở trên, trong Chuơng nói về Cứu Độ, theo lịch sử Phật Giáo, Đức Phật Thích Ca, không tự nhận mình là vị thần thánh có quyền phép thi ơn giáng phúc, nhưng là vị “lương y” về tâm thần, đã tìm ra thần dược để chữa bịnh “Đau Khổ” cho nhân loại! Nhưng vì Ngài giầu lòng quảng đại từ bi, suốt đời muốn ra tay cứu độ chúng sinh, nên sau khi nhập diệt, các phật tử, đặc biệt trong giới bình dân, vì lòng ái mộ, đã tôn kính Ngài như một vị Thần, có quyền thế.

     a.  Phật ADIĐA (AMITABHA)

    Phái “Tịnh Độ Tông” đã đáp ứng lại nguyện vọng của giới phật tử bình dân. Theo giáo phái này, cần niệm: “Nam Mô A-Di-Đà Phật” hoặc lẩm bẩm bằng môi, hoặc “lần tràng hạt” là có thể được Đức Phật, hiện thân của Đức Từ Bi, ban ơn giáng phúc cho. Những phật tử mộ đạo cũng thường chào nhau bằng câu vắn tắt như: “Mô Phật”, để tỏ lòng hợp nhất với nhau trong sự hộ phù của Phật A-Di-ĐÀ(125).

    b.  Quan Thế Âm Bồ Tát

    Trên bàn thờ Phật tại các chùa ở Việt Nam, ta thấy tượng Quan Thế Âm Bồ Tát đứng một bên, Đại Thế Chế Bồ Tát bên kia, và Đức Phật A-Di-Đà đứng ở giữa. Quan Thế Âm Bồ Tát được biểu tượng bằng chân dung của một phụ nữ, gọi tắt là “Phật Bà Quan Âm”. Vị Bồ Tát này, hiện thân cho Đức Từ Bi, đặc biệt ra tay cứu giúp các bà hiếm muộn. Phật Bà Quan Âm được mô tả đang chèo thuyền để đưa chúng sinh qua “bờ bên kia” (dịch chữ “đáo bỉ ngạn” = Ba-La-Mật = Paramita), mong được giải thoát và được hạnh phúc(126).

D.   BỐ THÍ BA-LA-MẬT LÀ GÌ?

    Như ta đã thấy trước đây, giáo lý của Phật Thích Ca chỉ nhằm vào mục tiêu duy nhất là “Diệt Khổ”, đem lại sự yên lặng, hạnh phúc cho tâm hồn được giải thoát. Ngoài ra, Ngài đều cho là phù phiếm, vô ích cả, ngay những tranh luận siêu hình về Chân Lý mà các nhà trí thức đương thời ưa thích nhất”(127).

     a.  Tâm-Bình-Đẳng là gì?

    Theo lịch sử của Phật Giáo, sau khi Phật đã nhập diệt rồi, giáo thuyết của Đức Phật được giải thích khác nhau, và chia thành rất nhiều tông phái. Vả lại, các tông phái được tự do diễn giảng, làm sao cho hợp với hoàn cảnh, với trình độ trí thức và sự hiểu biết của các tín đồ, không cần noi theo một tín điều nào. Ngoài sự phân chia ra Tiểu Thừa và Đại Thừa, ta còn thấy trong Đại Thừa cũng có hai phái chính là “Quyền Đại Thừa” chủ trương vạn sự vạn vật đều do Tâm mà có, ngoài Tâm ra, không có gì cả. Phái này cũng gọi là Tâm Tông, hay Bắc Tông do thiền sư Đạo Sinh, và Thần Tú sáng lập (chết 706) “Thực Đại Thừa”, cũng gọi là Không Tông, hay Nam Tông do Tăng Triệu và Huệ Năng chủ truơng: “Phi Hữu Phi Không, Diệc Hữu Diệc Không” (chẳng “có”, chẳng “không”, mà cũng “có”, cũng “không”). Do dó, Tiểu Thừa chủ trương “Chấp Hữu”, nghĩa là cho vạn sự vạn vật là “thật có”. “Quyền Đại Thừa” (Bắc Tông), chủ trương “Chấp Không”, nghĩa là ngoài “Tâm” ra, vạn vật “không có” gì cả; nhưng “Thực Đại Thừa”, thì lại cho rằng: vừa “có”, lại vừa “không”, nghĩa là không phân biệt “Có-Không”, Thiện-Ác: coi vạn sự vạn vật đều hoàn toàn Bình Đẳng như nhau: đó gọi là thực hiện được “Tâm-Bình-Đẳng” (Upekkha), cũng gọi là “Tâm-Vô-Sai-Biệt”. Trái lại, nếu phân chia có Ta có Người, có Thiện, có Ác, có Sống, có Chết, có Phiền não, có Bồ Đề, có Luân Hồi, có Niết Bàn..., là có Tâm-Sai-Biệt.

     “...Tiểu Thừa tuy nhận vạn tượng là Sai Biệt mà chưa biết đến chỗ Bình Đẳng của Bản Thể. Quyền Đại Thừa thì tuy phá được chỗ sai biệt của vạn tượng và biết đến chỗ Bình Đẳng của Bản Thể, nhưng chưa rõ đến chỗ Trung Đạo của Thực Đại Thừa: Bản Thể=Hiện Tượng; Hiện Tượng=Bản Thể; Sinh tử=Niết bàn; Niết Bàn=Sinh Tử…, Phiền Não tức Bồ Đề”. (128).

     Theo đại chúng phật tử, muốn thực hành đức Từ Bi, thì cần tuân giữ ba đức hạnh như đã kể trên là: Metta, Karuna, và Mudita. Nhưng theo phái thiền sư Không Tông (Nam Tông), thì bậc cao siêu nhất của Tình Thuơng là “Tâm-Bình-Đẳng. Theo họ, các vị Bồ Tát, các bậc Đại Giác đều giữ thái độ thản nhiên, vô tư, không phân biệt Thiện/Ác, khen/chê, thương/ ghét, lợi/hại, sống/chết, hoặc là Ta/Người (khác), không phân biệt chúng sinh và “Phật” (nói chung về người đã được giác ngộ), không có “Mê” và “Ngộ”, không có phiền não và Bồ đề (tượng trưng cho sự im lặng, an vui).

    “Bởi Vô Minh, nên nhận lầm có “Nhân” có “Ngã”, mới có Thiện, có Ác,có lợi, có hại. Trái lại, nếu nhận rõ tất cả là Một, Ta là Người, thì vấn đề Lợi/Hại, Thiện/Ác sẽ không còn nữa, vì cái hại của kẻ này là cái lợi của kẻ kia, cái lợi của người kia là cái hại của người nọ..không có cái gì thêm cho ai, bớt cho ai, lợi cho ai, hại cho ai cả, vì tất cả là Một, vì tất cả là Ta”. (129).

     b.  Bố Thí Ba-La-Mật là gì?

    Trước hết nên tìm hiểu ý nghĩa của các danh từ chuyên môn dùng trong Thiền Tông như: Bát Nhã, Trí Huệ Bát Nhã, Ba-La-Mật...

    BÁT NHÃ, dịch âm bởi chữ PRAJNA (Sanskrit), PANNA (Pali). Bát Nhã là gì? Đó là một Trí Huệ, một sự hiểu biết khác với sự hiểu biết thông thường, do đó, gọi là “TRÍ HUỆ BÁT NHÔ. Thế nào là sự hiểu biết khác thường? Đây là sự hiểu biết “sâu xa”,”vượt” không gian và thời gian,”vượt” thế giới “Nhị Nguyên”, tức phân biệt Thiện/Ác, Ta/Người, Lợi/ Hại, nghĩa là” vượt” trên mọi cặp mâu thuẫn, mọi sự biện luận khẳng định (có), phủ định (không có): vì cả hai là Một. Đó cũng gọi là Bình đẳng Luận, hay Nhất Nguyên Luận, Nhất như Luận. Do đó, mới có những thành ngữ như: “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”, hay “Hữu tức Vô, Vô tức Hữu”. Pháp môn Không Tông này chống lại các hình thức lý luận biện biệt, phân chia ra Phải/Trái, Có/Không... mà họ gọi là Nhị Nguyên Luận. Vì “Trí Huệ Bát Nhã” là sự hiểu biết khác thường, “vượt khỏi bên kia bờ” của những nhận thức và suy luận Nhị Nguyên, phân chia, phân tích cái này khác cái kia…, nên mang tên đặc biệt là “Trí Huệ Bát Nhã Ba-La-Mật” (sẽ giải thích ở duới đây).

    BA-LA-MẬT là gì? Ba-La-Mật là dịch âm của tiếng “PARAMITA” (sanskrit), Tàu dịch nghĩa là “đáo bỉ ngạn”, nghĩa là “đến bờ bên kia”. Theo thiền sư phái Không Tông, từ trong bể khổ, nhờ tu theo “Trí Huệ Bát Nhã Ba-La-Mật”, nghĩa là “vượt” hẳn lối Lý Luận theo LÝ Trí biện biệt, phân chia Nhị Nguyên, chúng sinh có thể sang bên kia bờ Giải Thoát của chư Phật.” Danh từ “đáo bỉ ngạn” (đến bờ bên kia, Ba-La-mật=Paramita) cũng chỉ là một nghĩa bóng mà thôi, chứ thực ra thì “cái bờ” ấy “không ở đâu cả, nhưng ở đâu cũng có”, tức là chỗ mà Trang Tử, ở Thiên Tiêu Diêu Du gọi là “vô hà hữu chi hương” mà nhà Phật gọi là “ưng vô sở trụ” (Tâm không vướng mắc (Trụ) vào đâu cả)”.

    Phương pháp tu hành của phật Giáo có sáu điều phải thực hiện, gọi là “LỤC ĐỘ” như: Bố Thí (Dana, Charity), Trì Giới (Sila, Morality), Nhẫn Nhục (Kshanti, Patience), Tinh Tấn (Virya,Vigour), Thiền Định (Dhyana, Meditation), và Trí Huệ (Prajna, Wisdom). Đó là cách tu theo Bồ Tát Thừa, theo lối thường, vì còn phân biệt Nội/Ngoại, Thị/Phi, Thiện/Ác, Vinh/ Nhục, nghĩa là vẫn còn những cặp mâu thuẫn. Theo phái Không Tông, thì “dù có tu “Lục Độ”, cũng phải “vượt” lên khỏi “Lục độ”, vì đối với Bát Nhã Ba-La-Mật, thì “lục độ” cũng vẫn có “chấp trước”, nên hoàn toàn vô nghĩa và không hiệu lực gì đối với vấn đề Giải Thoát cả. Bởi vậy, tu “lục độ” mà muốn đừng mắc trong lục độ, bị luân hồi sinh tử, thì phải tu “Lục Độ Ba-La-Mật”... tức là “BỐ THÍ BA-LA-MẬT”, “Trì Giới Ba-La-Mật”, “Nhẫn Nhục Ba-La-Mật”, “Tinh Tấn Ba-La-Mật”, “Thiền Định Ba-La-Mật”, “Trí Huệ Ba-La-Mật”.

    Do đó, “BỐ THÍ BA-LA-MẬT” là không vị lợi, vị danh, nhưng là một hành động tự nhiên, không tính toán lợi hại. Bố thí mà “chẳng thấy có mình là người bố thí, cũng chẳng thấy có người được mình bố thí” (thọ thí). Bố thí “như hành động tự nhiên và vô niệm (niệm vô niệm=không còn ý niệm phân hai=Chánh niệm=Bát Nhã) của Mặt-Trời chiếu sáng vạn vật mà không hay rằng mình chiếu sáng, và cũng không chiếu sáng cho riêng ai, cho kẻ thân hay người thiện… mà là chung cho tất cả mọi người và mọi vật”. (130).

    Nói tóm lại, nền luân lý, đức Từ Bi của Phật Giáo có tính chất thực tiễn đem lại lợi ích cho mình (tự giác) và giúp tha nhân, giúp đời bớt đau khổ (giác tha). Niệm Phật, kinh kệ, cúng bái để đem lại lợi ích thiết thực cho đời sống hiện tại như mong được lành bệnh, sinh con, được mùa, v.v. “Tụng Niệm” để tìm ra chân lý, tìm thấy chân tính, hay Phật Tính, giúp tâm thần được sảng khoái, phong phú hơn trong kiếp sống hiện tại. Nền luân lý và đức Từ Bi, được dân chúng cố gắng tuân theo, giúp cho mối tương quan giữa người với người thêm tươi thắm, đậm đà, thương mến hơn(131)!

TOÁT LƯỢC MẤY ĐẶC ĐIỂM

     1. Nền Luân Lý, đức Từ Bi, theo ý định của vị sáng lập là Đức Phật Thích Ca, mang tính chất thực tiễn, hiện thực, hiện thế, cấp cứu, để cứu vớt nhân loại bớt đau khổ.

    2. Sau khi Đức Phật đã nhập diệt rồi, thì giáo lý của Ngài được chia ra rất nhiều môn phái khác nhau. Mỗi môn phái được tự do giải thích, không bị ràng buộc bởi một tín điều nào. Theo lịch sử Phật Giáo, thường chia ra phái Tiểu Thừa, chủ trương “Tự Giác”, chỉ chuyên lo việc tự độ cho bản thân mình. Phái Đại Thừa chủ xướng “Tự Giác nhi Giác Tha”, cứu mình và giúp đỡ người khác nữa.

     3. Giáo thuyết của hai phái Tiểu Thừa và Đại Thừa có nhiều quan điểm khác biệt, nhưng cả hai đều chủ trương “TỰ ĐỘ”, nghĩa là tự mình cứu lấy mình, không ai có thể thay thế, hay ban ơn giáng phúc cho mình được. Đức Phật chỉ làm gương cho mình bắt chuớc, chứ không ban ơn gì cho mình.

     4. Bởi đó, muốn được cứu độ, thì phải tự mình noi gương Đức Phật và các vị Bồ Tát, La Hán…, thực hành những phương pháp tu hành như: Ngũ Giới, Tam Độc, và “Lục Độ”..., mục đích là giúp phật tử tự tìm ra chân tính của mình, để được “Giác Ngộ”.

     5. Trong Lục Độ, thì đức Từ Bi đứng đầu và quan trọng hơn cả. Vì thế, các thiện nam tín nữ đã tôn phong Đức Phật Thích Ca như Vị Thần, hiện thân của đức Từ Bi, có quyền phép ra tay cứu vớt, và ban ơn phúc cho chúng sinh. Một Vị Bồ Tát khác cũng được tôn kính làm “Phật Bà Quan Âm”, hiện thân cho đức Từ Bi, hay cứu vớt trẻ con, và người hiếm muộn.

     6. Theo cách thực hành chung của đại đa số tín đồ Phật tử, thì việc thi hành đức Từ Bi là cứu giúp tha nhân, từ trong gia đình ra ngoài xã hội để cầu phúc báo. Nhưng phái Phật học theo Nhất Nguyên Luận chủ trương “Vô Ngã”, “Vô”, vũ trụ là Một, nên chống lại cách dùng Lý Trí để biện biệt, phân chia, phân tích mà họ gọi là “Nhị Nguyên Luận”. Đặc biệt phái Đại Thừa Nam Tông (Không Tông), vì trung thành với Nhất Nguyên Luận, nên cho rằng phải đạt được “Tâm-Bình-Đẳng” khi thực hành đức Từ Bi, nghĩa là không phân biệt Ta/Người, Thiện/Ác, Phiền Não/Niết Bàn, Lợi/Hại… Cách thực hành đức Từ Bi như thế, gọi là “Bố Thí Ba-La-Mật”.

ĐOẠN III.   ĐỨC BÁC ÁI CỦA THIÊN CHÚA GIÁO

    Thiên Chúa Giáo là ĐẠO chỉ thờ Một THIÊN CHÚA duy nhất, mọi vật mọi loài đều bởi Thiên Chúa mà có và phải qui hướng về Chúa như là Căn Nguyên. Vạn sự vạn vật tồn tại, tồn hữu là nhờ Tình Yêu Thương Vô Hạn, và Vô Điều Kiện (uncondional Love) của Thiên Chúa ban phát ra, vì bản thể của Thiên Chúa được định nghĩa là: “Thiên Chúa là Yêu Thương” (I Gioan 4:39). Do đó, trong Thiên Chúa Giáo, Thần Học, Triết Học, tín điều, phụng tự, luật pháp, v.v. đều lấy Tình Yêu Thương Vô Hạn của Thiên Chúa làm nền tảng, lý do để giải thích. Chẳng hạn, vì Yêu Thuơng mà Chúa dựng nên trời đất, vũ trụ; cũng vì Yêu Thương vô điều kiện mà Chúa tạo dựng con người, và đã sai Thánh Tử giáng thế làm Người để thay cho nhân loại, làm lễ vật Hy Sinh, đền tội, chuộc tội cho nhân loại được Hồng Ân Cứu Độ.

    Sau đây, ta sẽ lần lượt diễn giảng:

    A. Nền tảng, của đức Bác Ái phát xuất từ Tình Ái Vô Biên của Chúa, và từ Chúa KyTô là Gương Mẫu.

    B. Mối liên hệ “tương tự” giữa Tình Ái của Chúa và tình yêu của loài người, như thế nào? Tình Yêu của Chúa “giống”, và “khác” tình yêu của ta làm sao?

    C. Tình Yêu là sự “đối đáp”, là mối tương giao giữa các “Nhân vị”, với nhau, nghĩa là giữa “Người” với “Người”'

    D. Do đó, muốn có tình yêu thương thật sự, thì cần mấy đặc tính như: vì chung một lý tuởng, nên cùng nhau chia sẻ những khó khăn; tôn trọng sự tự do, bình đẳng, quyền lợi của nhau; thực thi đức Bác Ái bằng việc làm cụ thể như ân cần chăm sóc, tha thứ khuyết điểm và giữ lòng chung thuỷ, trung thành với nhau...

A.   THIÊN CHÚA LÀ CĂN NGUYÊN CỦA ĐỨC BÁC ÁI

     Vạn sự vạn vật đều qui hướng về Thiên Chúa như Nguyên Uỷ và Cứu Cánh. Trong lãnh vực Tình Ái cũng vậy. Đức Bác Ái, động lực nội tại phát sinh các nhân đức khác, phải đặt nền tảng lý do tồn tại (raison d'être) nơi Tình Thương Vô Hạn của Thiên Chúa. Tình Ái Tuyệt Đối này, chính là Bản Tính của Thiên Chúa, đã được biểu lộ, mặc khải nơi Đấng Cứu Thế, là Chúa Giêsu Kytô. (132).

    1.  Tình Ái của Thiên Chúa là Gương Mẫu

    Tình Thương vô biên, bao la của Chúa đối với nhân loại, đã là mẫu mực và là động lực khiến mỗi người phải yêu thương tha nhân đồng loại. Vì Chúa đã tạo dựng nên ta và yêu thương ta, nên ta phải yêu mến Chúa. Đó là giới răn thứ nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, tức là “Yêu người như mình ta vậy”, vì mọi người đều là con cái của Chúa sinh ra. Do đó, giá trị cao quí của con người đặt nền tảng tại sự liên hệ với Chúa, tại tình nghĩa tử mà Chúa đã tự ý ban “nhưng không”. Nhân loại “có”, là vì Chúa “Có”. Kinh Thánh viết: “Con người trở thành giống như Chúa (eritis sicut Deus: Gen. 3:5), vì con người mang trong mình “hình ảnh”, tức sự “tương tự”của Chúa (Gen 1:27,5:1, I Gioan 3:1-3)(133).

    Trong Thiên Chúa Giáo, Mầu Nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể, tức là Chúa Giêsu KyTô giáng thế làm Người: đó là Tột Đỉnh của Tình Ái Thiên Chúa đối với nhân loại và đối với cả vũ trụ càn khôn. Vì Yêu Thương loài người vô bờ bến, vô hạn, mà Thiên Chúa đã sai Thánh Tử giáng trần để mặc khải Mầu Nhiệm Tình Ái của Chúa cho nhân loại. Do đó, chính Đấng Cứu Thế là “Hiện Thân” của Tình Ái Thiên Chúa. Các Lời Ngài giảng dạy, các phép lạ, các cử chỉ, hành động đối với người nghèo, bệnh nhân, trẻ em, phụ nữ, bà góa... nhất nhất đều biểu lộ Tình Ái của Thiên Chúa đối với nhân loại! Bởi vậy, Chúa Giêsu KyTô là Gương Mẫu, là Thủ Lãnh của Dân Chúa, tức Hội Thánh gồm những tín hữu hoan hỉ đón nhận Tin Mừng do Chúa Cứu Thế tuyên bố. Suốt trong lịch sử đã có hằng triệu triệu tín đồ, tu sĩ nam nữ, chỉ lấy Chúa Giêsu KyTô làm Mẫu Mực cho đời sống tận hiến để phục vụ tha nhân. Tình Bác Ái của Chúa Cứu Thế cũng là “Khuôn Vàng Thước Ngọc” để đo mức độ về đời sống trọn lành, thánh thiện. Ai càng nên giống Chúa hơn, thì càng tới gần sự thiện hảo hơn. Do đó, ta thấy các Thánh Anh Hùng Tử Đạo, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đức Tin, bắt chước Chúa chịu chết trên Thánh Giá để đền tội cho nhân loại. Cũng có những tu sĩ nam nữ sống đời tận hiến, trinh khiết để cầu nguyện, hoặc giúp đỡ người đau khổ, nghèo khó. Khi rửa chân cho các môn đệ, để dạy họ sống hoàn toàn theo gương mẫu của Chúa, Ngài phán: “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới, là chúng con phải thương yêu nhau. Thầy đã yêu chúng con thế nào, chúng con phải yêu nhau như vậy” (Gioan  13:34).

     Mỗi người phải yêu thương tha nhân vì muốn bắt chước noi gương tình Chúa yêu thương ta. Bởi vậy, nếu ta không biết yêu tha nhân, thì ta cũng không thể yêu mến Chúa được. Yêu mến tha nhân đồng loại là hàng ngang! Trước hết, tự nhiên ta cảm thấy yêu mến cha mẹ, anh chị em ruột thịt, sau đó, tình yêu mới tỏa rộng ra bên ngoài tới bà con thân thuộc, họ hàng, xóm làng, bạn hữu, đồng hương, và xa hơn nữa là tình liên đới quốc tế. Tình ái lan rộng từ một tiểu vũ trụ đến một đại vũ trụ, từ một trái tim nhỏ bé, “nở” ra một bầu nhiệt huyết bao trùm vũ trụ. Từ trong thâm tâm ta cho đến bên ngoài vũ trụ, đâu đâu cũng thấy tiềm tàng, nung nấu một tình thương dạt dào. Và từ thế giới con người ta vươn ra ngoài vũ trụ càn khôn, rồi từ vũ trụ càn khôn, ta vượt lên thế giới vô hình, lên Đấng Tuyệt Đối. Đó là chiều dọc siêu việt của Tình Yêu! Nhưng bất cứ ở kích thước nào, ta vẫn thấy tình thương tiềm ẩn. Do đó, nơi trái tim nhỏ bé của con người, chính là” nơi chốn” (locus) gặp gỡ của Hữu Hạn và Vô Biên: Từ Hữu Hạn vượt lên Vô Biên, hoặc từ Vô Biên trở về Hữu Hạn. (134).

     2.  Tình Ái Vĩnh Cửu

    Thiên Chúa là Vĩnh Cửu và Thiên Chúa là Yêu Thương, nên Tình Ái của Chúa là Vĩnh Cửu, từ trước vô cùng vẫn có và còn tồn tại đời đời kiếp kiếp về sau. Do đó, tình yêu tha nhân đồng loại cũng phải bền vững luôn mãi muôn đời. Tại sao? Vì giới răn thứ hai, “Yêu người”, cũng giống giới răn thứ nhất “Mến Chúa”' vì con người giống “hình ảnh” Chúa, nghĩa là có Chúa ngự tại nội tâm của con người, nên con người được chia phần, được tham dự vào sự Vĩnh Cửu của Chúa. Do đó, đời sống vĩnh cửu (trên thiên đàng) vẫn phải có tình yêu mến tha nhân, vì (trên thiên đàng) con người luôn luôn yêu mến Chúa. Đức Tin, Đức Cậy thì qua đi, khi ta nhìn thấy Chúa “nhãn tiền”, nhưng Đức Mến “chẳng hề qua đi” (I Cor 13:13). Bởi vậy, Đức Mến là nền tảng của các nhân đức khác, vì nhờ Đức Mến mà con người hữu hạn có thể kết hợp, giao hòa với Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối, Vô Biên.

     3.  Tình Thương Tràn Lan Khắp Vũ Trụ

    Thiên Chúa là nền tảng, là lý do tồn tại của vạn sự vạn vật. Tình Yêu Thương Vô Biên của Chúa cũng chính là sự Sống, là Năng Lực tiềm ẩn được biểu lộ ra bên ngoài vũ trụ hữu hình. Đâu đâu ta cũng thấy tràn đầy sự Sống và Năng Lực, làm cho nhân loại và các sinh vật, thực vật, khoáng vật biến hóa, sinh động không ngừng. Từ nơi vũ trụ hữu hình này, ta có thể nâng tâm trí con người lên cõi vô hình, và cảm nghiệm được chính Nguồn Sinh Lực Tuyệt Đối, cũng là Tình Thương Vô Biên hằng tràn lan trên muôn vật muôn loài. Do đó, tình yêu thuơng của nhân loại không thu hẹp vào thế giới tương đối, hữu hình mà thôi, nhưng có thể “vượt” lên đến điểm Hội Tụ Tuyệt Đối là Thiên Chúa, đã được biểu lộ, mặc khải nơi Chúa Cứu Thế.

    Một hình ảnh tượng trưng cho Tình Ái Tuyệt Đối vượt trên các tổ chức, đoàn thể hữu hình, đó là “Hội Thánh Chúa”, hay “Nước Thiên Chúa”. Hội Thánh Chúa, không phải chỉ xét về phương diện bên ngoài, có sự hợp nhất về lãnh đạo, về phẩm trật, về giáo luật, nhưng Hội Thánh Chúa, trong căn bản, chính thật là một Sinh Lực của Tình Ái Tuyệt Hảo, liên kết các phần tử là con của Chúa lại thành một “Thân Thể Mầu Nhiệm” (Mystical Body) mà Chúa Cứu Thế làm Đầu, làm Thủ Lãnh.

B.   TƯƠNG QUAN GIỮA TÌNH ÁI THIÊN CHÚA VÀ NHÂN LOẠI

    Xét về nội dung ý nghĩa của chữ Yêu Thương, người ta phân biệt ra ba ý nghĩa hay ba loại Tình Ái khác nhau, không hoàn toàn “đoạn tuyệt” với nhau, không chống đối nhau, nhưng vẫn có thể liên quan đến nhau.

     1.  Ba Loại Tình Ái

    Theo nội dung ý nghĩa, tình ái có thể xếp đặt làm ba cấp, tính từ dưới lên trên :

    a. Tình Tư Dục.(Eros)  Đây là tình yêu vị kỉ tìm thỏa mãn những nhu cầu cá nhân, về dục tính (sex), về tình cảm, về gia đình.

    b. Tình Bằng Hữu.(Philia)  Thứ tình cảm này hướng về tha nhân, và lan rộng tới những người ngoài khuôn khổ nhỏ hẹp của gia đình, như bạn bè, làng xóm, quốc gia. Vì tình nghĩa đồng bào, đồng hương, hay họ hàng mà đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau.

    c.  Tình Bác Ái.(Agape)  Đây là tình ái vị tha, vô điều kiện (uncondional love), vì Tình Bác Ái bao la, vô hạn mà Thiên Chúa đã tạo thành vũ trụ, và hằng thi ân giáng phúc cho muôn vật muôn loài. Vì Tình Bác Ái vô hạn đó mà Chúa Giêsu Kytô, vốn là Thiên Chúa, đã tự hạ, tự hiến làm lễ hy sinh để cứu độ nhân loại (coi Thư gửi Philiphê 2:6-11, Kenosis).

    2.  Ba Loại Tình Ái Liên Quan Với Nhau

    Tuy Tình Chúa bao la và là nguồn gốc của mọi tình yêu thương vị tha, còn tình người rất hạn hẹp, nhưng ta vẫn thấy có mối liên hệ, liên tục giữa hai mối tình ấy. Tình Chúa giầu lòng vị tha, đổ tràn trên vạn sự vạn vật. Tình người dựa trên cảm giác, trên vật dục, nhưng cũng phải vươn lên tới Chúa là Tình Ái Tuyệt Đối. Do đó, ngay trong tình yêu vật dục thấp kém, ta cũng nhận thấy một hình ảnh hoặc một chút hương vị của Tình Yêu Thương Tuyệt Đối. Chính Tình Ái Siêu Việt khiến tình yêu thấp kém được thêm phần thanh cao. Bởi vậy, không có sự đối nghịch, hoặc “đứt đoạn” giữa Tình Bác Ái vô biên của Chúa và tình yêu vị kỉ của nhân loại, nhưng vẫn có sự hỗ tương giao hòa. Đã thật tình “Mến Chúa”, tất nhiên cũng phải “yêu người”, vì cả hai giới răn liên hệ mật thiết với nhau. Nếu yêu mến Chúa một cách chân thành, thì cũng phải noi gương bắt chước Tình Bác Ái bao la của Chúa để tỏa rộng tình yêu của mình đến cho mọi người chung quanh. Ngược lại, yêu người thật tình cũng sẽ giúp ta vươn tới thứ tình yêu vị tha, hy sinh, tức tình bác ái. Có thể sánh ví một cách “tương tự” như sự hỗ tương ảnh hưởng giữa linh hồn và thể xác, do đó, Tình Bác Ái vô biên của Chúa và tình yêu hữu hạn của nhân loại đều có tuơng quan liên hệ với nhau(135).

     3. Hình Anh “Tương Tự” giữa Tình Chúa và Tình Người

    Trong Kinh Thánh hay lễ nghi phụng tự, hoặc trong Thần Học, tu đức... ta thấy dùng những hình ảnh tình tứ, thơ mộng, phỏng theo tình ái giữa vợ-chồng, cha-mẹ với con cái... để diễn tả Tình Ái Siêu Việt của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đây chỉ là những hình ảnh “tương tự” (analogy), chứ không phải đúng hệt như vậy.

    a. Tình Yêu Vợ-Chồng.  Trong Kinh Thánh, tình yêu của vợ-chồng được ca tụng như một kỳ công của Đấng Tạo Hóa. Tiệc cưới được sánh ví như sự hoan lạc trên Thiên Đàng. Do đó, tính dục (sexuality) không phải là điều xấu, là tội lỗi. Thánh Phao lô Tông Đồ đã dùng hình ảnh tình ái vợ-chồng trong hôn nhân để ám chỉ tình ái giữa Chúa Cứu Thế và Hội Thánh, tức là các tín hữu. Bởi vậy, tình nhục dục vẫn có thể “thăng hoa” thành tình yêu gia đình, rồi lan rộng ra ngoài xã hội, để vươn lên tới tình yêu cao vời, thần bí hiệp thông với Chúa.

    b. Tình Phụ-Mẫu với Con Cái. Ngoài tình nghĩa vợ-chồng, không có một tương quan tình ái nhân loại nào cao quí bằng tình yêu giữa cha mẹ và con cái. Bởi vậy, trong Phúc Âm, Chúa Cứu Thế đã dùng danh từ “Abba”, nghĩa là “Cha” để gọi Thiên Chúa, và để ám chỉ mối tương quan tình nghĩa giữa Thiên Chúa là Cha, và những người được Chúa yêu là con cái Chúa, như trong kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời...” (Mat 6:9-13).

    Nói tóm lại, “Thiên Chúa là Bác Ái”, Bản Tính của Chúa và mối Tương Quan Siêu Phàm giữa Ba Ngôi Vị Thiên Chúa (Mầu Nhiệm Tam Vị Nhất Thể Thiên Chúa), là tương quan Tình Ái Siêu Việt mà trí tuệ loài người không thể hiểu thấu, không thể diễn tả cho cân xứng được. Dầu vậy, Thần Học Thiên Chúa Giáo vẫn cho phép dùng ngôn ngữ, hình ảnh phàm tục để ám chỉ (một phần nào) sự “tương tự” và liên quan giữa Thiên Chúa Siêu Việt và nhân loại thuộc giới thụ tạo tương đối. Nhưng nên nhớ: thế giới hữu hình chỉ có thể phản ảnh, một cách lờ mờ “tương tự”, những Thực Tại Siêu Việt mà thôi!

C.   ĐỨC BÁC ÁI VÀ QUAN NIỆM NHÂN VỊ

    Tình Bác Ái phải qui hướng về Chúa như nền tảng, căn nguyên, vì Thiên Chúa là Một Ngôi Vị, nên Tình Ái cũng mang đặc tính “ngôi vị”, nghĩa là tình thương là tình liên đới giữa các nhân vị (hay ngôi vị ) với nhau, giữa người với người (interpersonal). Trong kinh nghiệm giao tiếp, tình ái bao giờ cũng là một mối cảm tình đặc biệt dành cho một “người” (một nhân vị) riêng biệt, khác với mọi nguời khác(136).

    Vấn đề đặt ra ở đây là: ta có thể dùng kinh nghiệm tình ái giữa người với người, (loài tương đối, hữu hạn) để ứng dụng vào kinh nghiệm tôn giáo thần bí giữa Thiên Chúa là Đấng Siêu Việt, được không? Tình Bác Ái Vô Biên của Chúa có tính cách “Ngôi Vị” (personal) không? Một thiểu số chống lại việc dùng danh từ nhân vị, hay ngôi vị áp dụng vào Thiên Chúa là Nguyên Lý Siêu Việt, vì sợ sẽ hạ thấp giá trị siêu đẳng của Chúa xuống hàng phàm tục. Theo họ, Nguyên Lý đó phải là vô- nhân-vị (non-personal), vì họ chống lại mọi hình thức của thuyết “thần-nhân-đồng-hình” (anthropomor-phism), nghĩa là dùng hình ảnh của con người để ám chỉ, áp dụng vào Chúa.

    Theo Thần Học Thiên Chúa Giáo, như Thánh Thomas, thì ý niệm về tình ái là “thần-nhân-đồng-hình”, vì được rút ra từ kinh nghiệm giao tiếp giữa người với người, giữa các nhân vị. Dĩ nhiên, ta phải biết hạn chế, thanh lọc, chọn lựa các danh từ khi ứng dụng vào mối tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, nhưng vẫn được coi là hợp lý khi dùng những danh từ, hình ảnh tượng trưng để “ám tỷ” (sánh ví) giữa các thực tại hữu hình và vô hình. Thiên Chúa là Đấng Vô Danh, Vô Hình, Vô Tượng, Siêu Việt trên hết mọi loài, nhưng Kinh Thánh vẫn thường dùng phương pháp “tương tự” để “sánh ví” Thiên Chúa như: Vua, Mục Tử, Cha… và để diễn tả, dầu một cách bất tương xứng, mối tình thắm thiết giữa Thiên Chúa và dân của Chúa. (137).

    Thiên Chúa là một “Ngôi Vị” (“ Nhân Vị”) rất đặc biệt, không thể hiểu như một “nhân vị”, của một “người” thường được! Do đó, nếu ta gọi Chúa là “CHA”, thì phải hiểu ý nghĩa của chữ đó “vượt” hơn ý nghĩa thông thường. Chữ “Cha”, hay “Mẹ”, theo nghĩa bóng, ám chỉ công ơn sinh thành, dưỡng nuôi, dạy dỗ… Do đó, trong các mối tình cảm của loài người thì tình Cha-Mẹ đối với con cái là cao quí hơn cả, đến nỗi dân tộc như Việt Nam, Trung Hoa… đã nâng lên hàng tôn giáo, tức Đạo Hiếu. Bởi vậy, ta gọi Chúa là “CHA”, vì Chúa còn hơn cha mẹ chúng ta bội phần: Chúa đã dựng nên và hằng gìn giữ che chở ta luôn mãi. Khi dùng phương pháp “tương tự” (analogia entis) để sánh ví một thực tại tương đối, hữu hình, với một Chân Lý Siêu Việt Tuyệt Đối vô hình, vô tượng, như khi nói: “Chúa là Mục Tử nhân lành yêu thương đoàn chiên”, thì phải hiểu các danh từ “yêu thương”,” Mục Tử nhân lành”, theo nghĩa bóng, nghĩa là “vượt” trên bình diện của loài thụ sinh.

    Trong đời sống thiêng liêng, thần bí (mysticism), trong kinh nguyện, các tín hữu luôn đối thoại với Chúa bằng một tình yêu thắm thiết như tình nghĩa “vợ-chồng”, cha mẹ-con cái, hoặc tình bằng hữu đậm đà. Các linh hồn không đối thoại với “hư vô”, “hư không”, nhưng trao đổi, cảm thông với một Đấng “KHÁC”, có Ngôi Vị, có Bản Vị. Ngay trong giây phút thần thông kết hiệp, “xuất thần” (ecstasy), thì linh hồn của thần bí gia vẫn giữ một nhân vị khác biệt với Ngôi Vị Tuyệt Đối của Đấng Toàn Năng.

    Bởi vậy, theo Thiên Chúa Giáo, nếu xóa bỏ quan niệm về nhân vị, ngôi vị, bản vị, thì không còn tôn giáo, không còn đời sống thiêng liêng, không còn lễ nghi phụng tự, không còn cầu nguyện nữa! Vả lại, Thiên Chúa Giáo, hay KiTô Giáo là Đạo lấy Thiên Chúa Ngôi Vị (Personal God) và Chúa Giêsu KiTô làm tâm điểm của Đức Tin. Chúa Giêsu KiTô, chính là Thiên Chúa giáng thế làm Người. Do đó, nơi Ngôi Vị của Chúa Cứu Thế vừa có thiên tính và nhân tính: Ngài vừa là Thiên Chúa thật, vừa là Người thật! Cho nên, tất cả vũ trụ càn khôn, hết mọi người mọi vật đều qui hướng về Chúa Giêsu KiTô là Cứu Cánh như Một Nhân Vị Tuyệt Đỉnh.

D.   TÌNH TƯƠNG GIAO GIỮA CÁC NHÂN VỊ

    Tình Bác Ái bao giờ cũng là mối tương giao, trao đổi, đối đáp, thù tạc giữa hai người (nhân vị), như tục ngữ có câu: “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Người ta cũng nói: Khuyển mã chi tình”, trong các con vật thì loài chó và loài ngựa “biết” quí mến chủ của nó hơn các con vật khác. Nhưng giữa loài động vật và loài người, không thể có sự cảm thông hoàn toàn được! Càng không thể có tình yêu thật giữa loài người với vật vô tri vô giác! Kẻ trao tặng và người nhận lãnh như chiếc nhẫn cuới, hay sính lễ trầu cau... chứng tỏ sự ưng thuận kết duyên của hai người. Việc cho đi cho lại là cử chỉ biểu lộ tình giao hảo, nên cần sự linh động và uyển chuyển. Do đó, tặng phẩm biếu lại không cần giống hệt với quà đã cho như là để trả món nợ cho xong, nhưng cốt làm sao có thể tỏ lòng biết ơn, và mối thịnh tình. Sư trao đổi, thù tạc nếu quá máy móc hoặc quá hững hờ cũng làm giảm bớt tình tương thân tương ái. Sau đây ta thử tìm hiểu xem những đặc tính nào sẽ giúp cho tình tương giao giữa hai người, giữa hai vợ-chồng, thêm bền vững, mặn mà.

     1.  Tìm Hạnh Phúc của Người Mình Yêu

    Điều tối kị trong mối tương giao giữa hai người là tính ích kỉ. Nếu chỉ “vơ vét” cho mình mà thôi, thì tình yêu sẽ tan vỡ. Do đó, tình yêu thương thật phải là tình Bác ái Vị Tha, nghĩa là luôn coi việc “tìm hạnh phúc cho người mình yêu”, là cốt yếu, dầu phải hy sinh sở thích riêng. Nếu hai người cùng có lòng vị tha, nghĩa là người này lo tìm làm đẹp lòng người kia, thì tình yêu mới bền vững và triển nở tốt đẹp. Chính Chúa Cứu Thế đã nêu gương sáng về tình yêu thương hoàn toàn vị tha này, vì Ngài đã hy sinh mạng sống, đã chết vì người yêu, khi Ngài phán: “Không ai có tình yêu lớn hơn kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Gioan 15:13).

    a.  Chia Vui Sẻ Buồn. Hai người thật sự yêu nhau, chẳng hạn cha mẹ yêu thương con cái, thì luôn chăm nom săn sóc hạnh phúc của người mình yêu, khi vui, buồn, lúc đau yếu, hoạn nạn. Tình yêu thật chỉ nẩy nở khi có sự hy sinh hạnh phúc riêng như sức khoẻ, thì giờ, tiền bạc... miễn là người mình yêu được sung sướng. Trái lại, nếu chỉ có thứ tình yêu vị kỉ, nghĩa là mỗi người chỉ lo tìm thỏa mãn sở thích riêng, không đếm xỉa gì đến hạnh phúc của người khác, thì dầu là hai vợ chồng cùng sống chung dưới một mái nhà, cũng có ngày phải tan rã. Nếu hai người cùng tìm hạnh phúc cho nhau, cùng lo lắng, chăm nom, săn sóc lẫn nhau, thì tình tương thân tuơng ái mới có cơ hội phát triển tốt đẹp và bền lâu.

     b.  Cùng Hướng Về Một Mục Đích.  Có văn sĩ nói: “Yêu nhau không phải ngồi nhìn nhau, nhưng là cả hai cùng nhìn về một hướng”. Bởi vì, nếu chỉ “nhìn nhau”, để soi mói, bắt bẻ, bắt lỗi, ganh tị nhau, thì sẽ sinh ra xích mích, cãi cọ. Trái lại, kinh nghiệm cho thấy, nếu hai người cùng một chí hướng, cùng đồng lao cộng khổ với nhau, cùng chia sẻ những nỗi vui buồn với nhau, như đôi vợ chồng trẻ cùng nhau chăn nuôi con cái cho nên thân nên người, thì tình yêu vị tha, hy sinh đó, càng ngày càng khắng khít, bền lâu. Vì cùng theo đuổi một mục đích, hay một công việc khó khăn, một cá nhân không thể làm một mình được, nên cần sự hỗ trợ, giúp đỡ của người khác. Do đó, nhờ sự chia sẻ ý kiến, sức lực để nâng đỡ nhau hoàn thành chương trình dự định, mà lòng quí mến, biết ơn nhau càng thêm đậm đà. Trong khi chân thành hợp tác để thực hiện một kế hoạch lớn lao, khó khăn, hai người thường dễ tha thứ cho nhau những khuyết điểm nhỏ nhặt, chịu đựng lẫn nhau, miễn sao công cuộc đại sự đi đến thành công. Do đó, tình tương thân tương ái ngày thêm bền vững, và “chung thủy”, nghĩa là trước sau như một, không thay lòng đổi dạ, không “dang dở”. Tình Yêu dễ nẩy nở khi có sự thông cảm giữa những người cùng đồng tâm nhất trí với nhau, và có cùng một lý tưởng. Kinh nghiệm cho thấy: khi quốc gia hữu sự, mọi tầng lớp dân chúng, không phân biệt lương-giáo, trẻ già trai gái… đoàn kết để cùng nhau chống ngoại xâm. Nhưng trong thời bình, vì thiếu lý tưởng rõ rệt, các đảng phái, bè nhóm bắt đầu nổi lên xâu xé lẫn nhau. Đối với các hội đoàn đạo đức cũng vậy. Vì các đoàn viên thiếu lý tưởng, hoặc quên mất mục đích khi gia nhập đoàn thể là “làm sáng danh Chúa”, nên đâm ra ganh tị, chia rẽ, bôi xấu nhau.

     2.  Yêu Thương trong Tự Do, và Tôn Trọng nhau

    Kinh nghiệm cho thấy: Tình nghĩa vợ-chồng, tình bằng hữu không nẩy sinh trong sự gò ép, gượng gạo hay bằng bạo lực, vì con người chỉ có thể yêu thương thật sự trong Tự Do, Bình Đẳng và Tôn Trọng các nguyện vọng chính đáng của mỗi bên.

    a.  Yêu Thương Trong Tự Do, Bình Đẳng.  Bình Đẳng và Tự Do thoải mái là những điều kiện giúp tình yêu thương phát huy tốt đẹp. Thử hỏi: Có tình yêu thương chân thật giữa những người cậy vào chức quyền hay tài năng, của cải giầu sang để đàn áp những kẻ cô thân, yếu thế không? Làm sao có sự thông cảm và tương giao tự do, khi một bên dùng mọi hình thức của bạo lực để chèn ép bên kia phải theo mình? Do đó, muốn thực hành đức Bác Ái chân thật, muốn cho tình yêu nẩy nở, cần có tình thần bình đẳng, khiêm tốn trong mối tương giao. Nếu người này có tài năng, tiền bạc hơn nguời khác, thì không phải để chia thành giai cấp, nhưng là để phục vụ, trợ giúp người khác với một tấm lòng quảng đại, hồn nhiên vui vẻ. Bởi vậy, tính hống hách kiêu căng, cậy tài cậy của, áp bức kẻ khác, thì không thể tạo dựng một tình yêu bền vững được. Vả lại, tình yêu thương chân thật, như đã định nghĩa ở trên, là mối tương giao, tương trợ, nghĩa là trao đổi lẫn nhau, người này giúp người kia, vì cả hai cùng cần nhau. Do đó, trong tình Bác Ái chân thành, không nên có thái độ của kẻ bề trên “chiếu cố”, hay “bố thí” cho kẻ bề dưới, hay kẻ thiếu thốn!

    Một câu hỏi khác: Loài người hèn hạ, vì là loài thụ sinh, làm sao dám “kết nghĩa” cùng Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối Siêu Việt được? Theo Thần Học giải thích, thì Hồng Ân khiến nhân loại được làm “nghĩa tử” của Thiên Chúa là do Tình Yêu Thương Vô Biên mà Chúa tự ý ban nhưng không, vì công nghiệp của Chúa Giêsu KyTô. Nhờ mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa giáng thế làm “Người”, nghĩa là nhờ “Nhân Tính” của Chúa KyTô làm “Trung Gian” (Mediator) mà nhân loại có thể kết giao với Thiên Chúa. (138).

    b.  Tôn Trọng Quyền Lợi, Đặc Tính. Thần Học và Triết Lý nhấn mạnh về nhân phẩm và nhân quyền, vì mỗi cá nhân tự bản tính đã có giá trị cao quý, vì là “nghĩa tử” của Chúa. Vả lại, theo quan niệm về “NhânVị”, thì mỗi người có những đặc tính, đời sống riêng, khác với mọi cá nhân khác. Do đó, những sự khác biệt giữa đàn ông với đàn bà, về thể xác và tâm lý, là sự tự nhiên, cần được tôn trọng. Những nguyện vọng, sở thích giữa hai thế hệ, trẻ với già, cha mẹ với con cái... nếu là điều chính đáng, tiến bộ, cũng cần được tôn trọng. Yêu Thương chân thật không phải là bắt người khác làm theo ý mình, và phải “giống hệt” như mình! Trái lại, cha mẹ yêu thương con cái, hay vợ chồng quí trọng nhau thật sự, khi một bên giúp bên kia phát triển những đức tính, tài năng, chí hướng, nguyện vọng chính đáng, nẩy nở tới chỗ hoàn hảo.

    3.  Đức Bác Ái và Hành Động

    Theo Phúc Âm, tình thưong chân thật phải đi đôi với việc làm cụ thể. Chúa Cứu Thế đã nhấn mạnh vào việc thực hành đức Bác Ái, bằng những dụ ngôn như: “Người Samaritanô nhân ái” (Luca, 10:25-37, 18:18-30). Đối với Chúa, không thể chỉ có đức Bác Ái “xuông”, nghĩa là chỉ nói mà không làm gì cả. “Ai yêu mến Thầy thì phải giữ lời Thầy” (Gioan 14:23-24). Khi rửa chân cho các môn đệ, tức là Chúa muốn dạy một bài học cụ thể về đức Bác Ái, Chúa phán: “Nếu các con biết các điều này và đem thực hành, thì phúc cho các con” (Gioan 13:17). Do đó, đức Bác Ái chân thật không phải chỉ là tình cảm, xúc động mau qua mau hết! Nhưng là tấm lòng vị tha, quyết chí ra tay giúp đỡ. Khi nhìn thấy cảnh thương tâm như đói khát, bão lụt, chiến tranh tàn phá… người ta có thể động lòng thương xót, sụt sùi “rơi lệ”, nhưng khi cần bỏ tiền ra để cứu trợ thì lại lẩn trốn: Đó là tình thương “giả dối, giả hình” mà thôi!

    Cũng vì muốn thực hành giáo huấn của Phúc Âm, mà trong Hội Thánh đã thành lập biết bao cơ quan Từ Thiện để cứu trợ nhân loại trong những cơn thiên tai hoạn nạn, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc. Theo lịch sử thế giới, chính quan niệm về tình Bác Ái Phúc Âm đã khiến nổi lên công cuộc giải phóng nô lệ, tôn trọng bình quyền của phụ nữ, và tôn trọng nhân quyền chống mọi hình thức độc tài áp bức con người. Đức Bác Ái Thiên Chúa Giáo cũng còn là động lực thúc đẩy công cuộc cách mạng về luật pháp, chính trị, xã hội, đặc biệt là phát triển kinh tế, khoa học, canh nông, y tế để chống bệnh tật, nghèo đói. Những hoạt động kể trên là cách thế thiết thực để thi hành đức Bác Ái, như Chúa đã dạy.

TOÁT YẾU CÁC ĐẶC ĐIỂM

     Sau đây, ta thử toát lược mấy dặc điểm của Đức Bác Ái, một nhân đức cao trọng nhất trong Đạo Thiên Chúa:

    1. Bản Thể của Thiên Chúa là Tình Bác Ái Vị Tha (agape). Do đó, chính tình Yêu Thương Vô Biên của Chúa là Căn nguyên, mẫu mực, lý do tồn tại và nền tảng của các tình ái vị tha khác của nhân loại. Chúa Giêsu KyTô, là chính Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể để mặc khải Tình Yêu Chúa cho nhân loại. Vì thế, đời sống, Lời giảng dạy, hành động của Chúa Cứu Thế là Gương Mẫu cho ta bắt chước để thực thi Bác Ái.

    2. Trong Thiên Chúa Giáo, giới răn “Mến Chúa, Yêu người”, tuy phân biệt, nhưng luôn đi liền nhau. Ta phải yêu mến Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn, hết sức lực vì Chúa đã yêu thương ta trước, và đã dựng nên, dưỡng nuôi ta. Đồng thời, ta phải yêu thương tha nhân, vì hết mọi người đếu là con cái do Chúa sinh ra.

    3. Theo Thần Học, và Kinh Thánh, mọi sự trên đời này sẽ qua đi: Đức Tin, Đức Cậy có ngày sẽ hết, nhưng Đức Mến vẫn tồn tại mãi, vì Tình Yêu Thương của Chúa bền vững muôn đời, và linh hồn những người”công chính” được kết hiệp với Chúa đời đời, trên nơi Vĩnh Phúc.

    4. Ta nghiệm thấy: Tình Bác Ái của Chúa tràn ngập vũ trụ, vì trời đất này có, là do Tình Ái Vị Tha của Chúa muốn “san sẻ”, phân phát sự Tuyệt Hảo của Chúa cho loài thụ sinh. Cũng vì Yêu Thương mà Chúa đã sai Thánh Tử là Chúa Giêsu KyTô giáng thế “làm Người”, để làm vị Trung Gian cứu độ nhân loại và vũ trụ. Bởi vậy, Chúa Cứu Thế là Thủ Lãnh của vũ trụ, của Hội Thánh, của nhân loại.

    5. Xét về đặc tính của tình yêu thương, ta có thể chia làm ba loại, ba cấp, tính từ dưới lên trên: a) tình tư dục, b) tình bằng hữu, c) tình bác ái vị tha. Ba cấp bậc tình ái đó không “đứt đoạn”, hay chống đối nhau, nhưng vẫn liên hệ, liên tục với nhau, nghĩa là con người cần cố gắng vươn lên, từ tình vật dục bất toàn tới tình yêu hoàn toàn vị tha.

    6. Bởi vậy, trong Kinh Thánh, vẫn thường dùng những tình yêu thương cao quí của nhân loại như: tình nghĩa Vợ-chồng, tình cha mẹ yêu thương con cái… như là hình bóng “tuơng tự” ám chỉ, một phần nào, Tình Bác Ái Vô Biên của Thiên Chúa đối với nhân loại hèn mọn.

    7. Vì Thiên Chúa là “Ngôi Vị”, Ngôi Vị Tuyệt Đối vượt trên hết mọi cá nhân, cá thể, mọi nhân vị, nên Tình Yêu Thương của Chúa vẫn giữ tính chất “Ngôi Vị”, nghĩa là trong tình yêu thần bí, khi linh hồn người công chính kết hiệp với Chúa, thì Ngôi Vị của Đấng Toàn Năng vẫn “KHÁC” với các nhân vị khác. Tuy là loài thụ tạo, nhưng nhân loại được kết nghĩa với Thiên Chúa, là nhờ Trung Gian Nhân Tính của Chúa Cứu Thế giáng thế làm Người để cứu độ nhân loại.

    8. Tình Bác Ái vị tha là tình tương giao, tương thân tương ái giữa các nhân vị khác nhau, vì thế cần mấy điều kiện để kết hợp với nhau:

    a) Tìm hạnh phúc của người mình yêu, nghĩa là vị tha hơn là vị kỉ. Vả lại, yêu thương thật là cùng nhau hướng về một lý tưởng, một mục tiêu cần thực hiện, để chia sẻ những khó khăn, để tha thứ những khuyết điểm, để cùng nhau “chung thủy”, trung thành hoàn thành điều đã cam kết.

    b) Tình yêu chỉ có thể phát huy trong Tự Do, Binh Đẳng. Do đó, cần Tôn Trọng những quyền lợi, sở thích chính đáng của nhau, để giúp nhau phát triển nhân phẩm của một con người đến chỗ vẹn toàn.

     c) Đức Bác Ái chân thành đòi buộc phải có hành động cụ thể. Nếu thực tâm yêu Chúa thì phải giữ lề luật của Chúa. Nếu thật lòng thương người thì phải bỏ tiền bạc, thì giờ, sức khoẻ… để giúp đỡ những người đang cơn túng cực, cần thiết.

ĐÀM ĐẠO TRAO ĐỔI

    Điều đáng vui mừng cho nhân loại là: Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo đều đồng ý với nhau về một điểm quan trọng: nhân loại phải yêu thương nhau! Vì thế, xét về mặt thực hành, người ta hay nói: Đạo nào cũng tốt, vì Đạo nào cũng đều dạy phải thương người cả! Thật vậy, trong đời sống hằng ngày, trong cách giao tiếp với tha nhân, người Phật tử chân chính bộc lộ một lòng Từ Bi đáng ca ngợi, khâm phục, vì chẳng những phải yêu thương nhân loại, mà còn phải mở rộng tình ái, bao bọc các loài sinh vật khác nữa! Trong đời sống xã hội, người Việt nam thường quí trọng những người có nhân nghĩa, và khinh chê hạng giàu có, thế lực, danh vọng, nhưng ăn ở “bất nhân”, “bất nghĩa”, trái với lễ giáo, với Đạo Nhân của Thánh Hiền.

    Tuy nhiên, trên đây mới là quan sát các tôn giáo về bình diện bề ngoài, cách thực hành, ta nhận thấy các tín đồ của các tôn giáo tại Việt nam, dầu là Phật tử, hay Công giáo, hoặc Đạo Hiếu (Thờ Ông Bà), đều tin vào “Ông Trời”, “Ông Thiên”, là Đấng cầm quyền sinh tử, vận mệnh của mỗi người. Về tình yêu thương thì ai cũng nhớ thuộc lòng câu ca dao tục ngữ: “Thương người như thể thương thân”. Đó là sinh hoạt tôn giáo bình thường, tự nhiên, theo truyền thống văn hóa Việt nam. Về phương diện này, các tôn giáo xem ra không khác nhau là mấy.

    Nhưng khi đứng trên bình diện lý thuyết, quan niệm, triết lý hay thần học, thì các nhà nghiên cứu về khoa “Tôn Giáo Đối Chiếu” (comparative religions) nhận thấy có nhiều sắc thái khác nhau, nhiều cách hiểu biết và giải thích khác biệt về ý niệm của một danh từ, một giới luật..giữa các tôn giáo với nhau, hoặc có khi xẩy ra trong cùng một tôn giáo, chẳng hạn như trường hợp Phật Giáo: đôi khi cách thực hành Đạo của các thiện nam tín nữ, trong đời sống hằng ngày, lại "khác" với những lý thuyết Triết Học, Phật học của các môn phái như Tiểu Thừa, khác Đại Thừa, Thiền tông Nam Tông (Không Tông) khác với Bắc Tông (Tâm Tông). (139).

    Bởi vậy, ta thử đàm luận để hiểu rõ hơn những quan niệm, những sắc thái khác biệt về Tình Ái như: Ai yêu? Yêu Ai? Yêu là một phương tiện hay cứu cánh?  Tại sao yêu?  Yêu thế nào? Nhưng trước hết, ta thử so sánh quan niệm Nhân Ái giữa Khổng Giáo và Lão Giáo giống nhau và khác nhau ở điểm nào?

    1.  Khổng Học và Lão Học Khác Nhau  Ở  Điểm Nào?

    Lão Học chủ trương trở lại đời sống giản dị, hòa hợp với Thiên Nhiên, nên đã chống lại Khổng Học muốn duy trì giá trị truyền thống và uy quyền của dĩ vãng. Lão Học tìm kiếm hạnh phúc cá nhân trong sự thoát tục, thanh bần, thần bí và hòa hợp với vũ trụ. Trái lại, Khổng Học chủ trương thiết lập một trật tự xã hội dựa vào tôn chỉ của đạo Nhân-Nghĩa, của lễ giáo, của thể chế và của luật Trung Hòa, Trung Dung. Lão Học thuộc về Âm, biểu tượng khía cạnh cá nhân, âm thầm, Vô Vi. Còn Khổng Học thuộc về Dương, nghiêng về xã hội, rực rỡ và Hữu Vi. Lão Học chủ xướng một nền luân lý cá nhân để điều khiển bản thân. Trái lại, Khổng Học giảng thuyết một nền luân lý xã hội để điều hành quốc gia.

    Khổng Học hay Lão Học đều công nhận ĐẠO hay THÁI CỰC là nơi hội tụ của Âm-Dương, nhưng để đạt tới Thái Nhất đó, thì Khổng Học và Lão Học đề xướng hai triết học, hai phương pháp khác nhau. (140).

    Đức Khổng Phu Tử nhận thấy rằng: vũ trụ này do một Vị Thượng Đế mà người xưa gọi là THIÊN (TRỜI), tạo dựng nên: đó là nền tảng của các tín ngưỡng cổ truyền. Theo suy tư triết lý, Đức Khổng cũng nhận thấy trong vũ trụ càn khôn, phải có một Nguyên Lý duy nhất, tạm đặt tên là ĐẠO, là nguồn gốc bao trùm tất cả các nguyên lý khác. Từ Nguyên Lý duy nhất, tức ĐẠO, phát sinh ra muôn vật muôn loài. Ngoài ra, Đức Khổng cũng san định một nền Luân Lý dựa trên Nhân Bản, tức Nhân-Đạo, cũng gọi là “Đạo làm Người”, gồm có: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Năm nhân đức này cần thiết để phát huy nhân bản, để trở nên các vị thánh hiền, gọi là bậc quân tử.

    Trang Tử chống lại đường lối tu thân của Khổng Tử, vì cho rằng năm điều Ngũ Thường là giả tạo, đi ngược lại nếp sống tự nhiên của con người, và vì phân chia ra giai cấp quân tử và tiểu nhân. Do đó, Trang Tử viết: Hết thảy vạn vật đều do ĐẠO mà ra, và mỗi vật đều có cái ĐỨC của nó, nghĩa là hết thảy vạn vật, mỗi vật đều có cái tính tự nhiên của nó. Nếu biết thuận theo tính tự nhiên mà sống, thì hạnh phúc có ngay trong lúc đó, không phải cầu cạnh đâu khác ở ngoài. Thường thì sở dĩ bản tính con người không được tự do phát triển là do sự ràng buộc, uốn nắn của chế độ, giáo dục, luân lý giả tạo của xã hội bên ngoài. Bởi vậy, Trang Học cũng như Lão Học hết sức phản đối nhân tạo mà đề cao cái sống gần với thiên nhiên. Bò ngựa bốn chân, đó là do Trời làm, còn khớp đầu ngựa, xỏ mũi bò, đó là do người làm ra. Giữ cẩn thận đừng làm mất Thiên Chân, đó là trở về cái “Chân” của mình (trở về bản tính tự nhiên của mình). (141).

     2.  Ai Yêu? Yêu Ai?

    Tình yêu chân thật là vị tha, nghĩa là coi tha nhân (người Khác) như một đối tượng tự lập, tự tại có giá trị, có nhân phẩm cao quí, đáng yêu mến, kính trọng, vì là con cái của Một Chúa và đã được Chúa Cứu Thế cứu độ: “Nhân linh ư vạn vật”! Dầu cá nhân đó phạm lỗi, thù nghịch với ta, ta vẫn phải yêu thương, kính trọng, vì người đó vẫn còn “nhân tính”.

    Trong Phúc Âm, Chúa Cứu Thế dạy các môn đệ: “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét minh, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả má con bên này, thì đưa cả má bên kia, ai lột áo ngoài của con, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì con hãy cho và ai lấy gì của con, đừng đòi lại. Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn công phúc gì nữa? Kẻ tội lỗi cũng yêu kẻ yêu mình. Nếu các con làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì có công phúc gì? Vì kẻ tội lỗi cũng làm như vậy. Nếu các con cho vay mượn và mong được trả lại, thì các con được công phúc gì? Vì kẻ tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để thu lại đủ số. Phần các con, hãy thương yêu thù nghịch mình, hãy làm ơn, hãy cho vay mượn mà không trông đòi lại. Như thế, phần thưởng của các con sẽ rất lớn và các con sẽ là con của Đấng Cao Cả, vì Ngài nhân từ đối với kẻ vô ơn và gian ác. Hãy nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ. Đừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán' đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho thì sẽ cho lại các con' người ta sẽ lấy đấu lớn, lắc chặt và đầy tràn, vì các con đong đấu nào thì sẽ đong lại bằng đấu ấy”. (Luca 6:27).

    Một đoạn khác trong Phúc Âm viết: “Anh em đã biết có luật rằng: Con hãy yêu anh em mình và ghét thù địch. Nhưng Thầy bảo: Anh em hãy yêu thù địch, hãy làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy cầu nguyện cho kẻ bắt bớ và bỏ vạ cho anh em. Như thế, anh em được nên con cái Cha ở trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên cho kẻ lành và kẻ dữ, và làm mưa xuống trên kẻ công chính và kẻ gian ác. Nếu anh em yêu kẻ yêu mình thì anh em có công phúc gì? Những người thu thuế chẳng làm như vậy sao? Và nếu anh em chào hỏi bà con mình thôi, thì nào có gì hơn người khác? Kẻ ngoại giáo chẳng làm như vậy sao? Vậy anh em hãy nên toàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng Toàn Thiện”. (Mathêu  5:43-48).

    Qua hai đoạn Phúc Âm trích dẫn ở trên liên quan đến vấn đề Tình Ái, ta nhận thấy những đặc điểm nhu sau: Mỗi người, dầu là bạn hữu, thù địch, kẻ lành, người dữ, kẻ ân nhân, người làm hại... bất cứ ai cũng có một “nhân vị”, một nhân phẩm đáng yêu thương. Ngoài ra, Thiên Chúa được xưng hô là “CHA”, tức là một Đấng, một Ngôi Vị Cao Cả trên hết, đầy tràn Tình Yêu Vô Hạn đối với loài thụ sinh, đặc biệt nhân loại được nhận làm “con cái” của Chúa. Do đó, trong tình Bác Ái, Chúa Yêu và người được Chúa yêu là hai Ngôi vị, nhân vị riêng biệt, khác nhau. Đức Bác Ái Vô Cùng của Chúa khiến ta được kết nghĩa với Chúa, nhưng không trộn lẫn, không xóa bỏ Ngôi Vị Tuyệt Đối, Cao Cả của Chúa. Chúa là Đấng Siêu Việt, vượt trên mọi cá nhân, và có quyền xét đoán, thưởng phạt, theo sự Công Bằng. Chúa là Gương mẫu cho nhân loại noi theo để yêu thương, tha thứ cho tha nhân. Chúa yêu thuơng kẻ gian ác, tội lỗi, vì chủ ý là muốn cứu độ và ban hạnh phúc thật cho chính họ, và vì Chúa biết rõ họ không hoàn toàn hư hỏng như người chung quanh nghĩ tưởng. Đối với con mắt thiển cận, vị kỉ của người đời, nhiều khi ta tìm cách “bôi nhọ” kẻ khác, chỉ bới móc những cái xấu nhỏ mọn của họ, nhưng không nhìn thấy những gì tốt đẹp, đáng yêu, đáng kính nơi người mà ta đã vội coi là kẻ thù.

    Vì chúng ta muốn nên toàn thiện, theo gương Chúa dạy, nên ta cũng phải “vượt” lên trên những xét đoán thiên lệch, thiển cận, vị kỉ của ta. Chỉ một mình Chúa mới thấu suốt tâm trí mỗi người! Nhiều khi ta kết án tha nhân là tội lỗi, gian ác, nên ta ghét bỏ vì là thù địch của ta. Nhưng ta rất dễ lầm lạc! Biết đâu nơi những tù nhân bị kết án tử hình theo luật pháp, nhưng trước mặt Chúa, họ là vô tội, hoặc ít ra, họ vẫn còn nhân phẩm, còn có thể cải tà qui chính để được cứu độ. Do đó, đức Bác Ái, theo gương mẫu của Chúa, luôn đòi hỏi ta vượt tính ích kỉ, ti tiện, hà tiện, để tỏ lòng quảng đại, vị tha, tha thứ, với mục đích đem lại hạnh phúc thật cho tha nhân. Tha nhân là đối tượng của tình yêu thương, là kích thước đo lường tình Bác ái của ta, như Lời Chúa: “Anh em muốn người ta làm cho mình thế nào, thì hãy làm cho người ta như vậy” (Luca 6:31). Nhà Nho cũng có câu: “Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mình không muốn, thì chớ làm cho kẻ khác). Yêu thương chân thật, không phải là xóa bỏ nhân cách, nhân phẩm của kẻ khác, hoặc bắt kẻ khác phải hoàn toàn giống mình, theo ý mình muốn, nhưng luôn tôn trọng “nhân vị”, và những nguyện vọng chính đáng của “người khác”. Tình yêu thương giữa vợ chồng, giữa cha mẹ với con cái, dầu mật thiết, hợp nhất đến đâu, cũng vẫn là những nhân vị khác biệt, có một bản lãnh riêng.

    Quan niệm về Tình Bác Ái vừa trình bày ở trên, khác với quan niệm triết lý về Tình Ái, về Bố Thí, như sẽ bàn luận sau đây:

    Trong “Phật Học Tinh Hoa”, trang 160-161, viết: “Có lẽ từ trước đến giờ chưa có một tôn giáo nào lại phủ nhận sự trường tồn của linh hồn như Phật Giáo... Theo Phật Giáo, quan niệm về một cái TA (NGÃ) trường cửu là một quan niệm sai lầm và hoàn toàn giả tưởng.”.... “Bởi nhận thấy có một cái TA đáng yêu đáng quý nên con người mới làm đủ thế thần đặng bảo vệ Nó và gìn giữ Nó được mãi mãi, trường tồn. Để được bảo vệ, Nó mới tạo ra một đấng Thượng Đế để được che chở, bênh vực..cũng như một đứa con cần được Mẹ Cha bao bọc. Để được giữ gìn mãi mãi, Nó mới bày ra cái thuyết Hữu-Ngã, nghĩa là có Linh hồn bất tử (Atman). Hay nói một cách khác, thuyết Thượng Đế cũng như thuyết Linh hồn bất tử đều là những lý thuyết do Bản-Ngã tạo ra để tự phỉnh, để tìm cách tự an ủi và thỏa mãn khát vọng được mãi mãi tồn tại, mong thoát khỏi cái luật vô thường. Sở dĩ người ta mê say tôn giáo...là để tìm những thỏa mãn nói trên, nghĩa là để thỏa mãn cái lòng lo sợ bị tiêu diệt của Bản-Ngã. Nhất định họ rất sợ nghe nói đến những gì nghịch lại với lòng ao ước của họ”

    Cũng trong cuốn “Phật Học Tinh Hoa”, khi bàn đến “Bố Thí Ba-La-Mật”, trang 227, viết: “Huống chi bậc tu Đại Thừa như Bồ Tát Thừa thì hạnh đầu tiên là Bố Thí Ba-La-Mật, tức là pháp “bố thí bất trụ tướng”, chứ đâu phải công việc “bố thí trụ tướng” như phần đông đã làm. Sao gọi là “bất trụ tướng bố thí”? “Bố Thí” mà “không trụ tướng” là bố thí mà “chẳng thấy có mình là người bố thí, cũng chẳng thấy có người được mình bố thí” (thọ thí). Như vậy hành động bố thí của Bồ Tát là một hành động của người đã được Giải thoát hoàn toàn, như hành động tự nhiên và vô niệm của Mặt-Trời chiếu sáng vạn vật mà không hay rằng mình chiếu sáng, và cũng không chiếu sáng cho riêng ai, cho kẻ thân hay người thiện… mà là chung cho tất cả mọi người và mọi vật. Bố thí là vì phải bố thí, không thể không bố thí cho được. Bố thí mà vẫn “vô tâm”, “vô niệm”... đó mới thật là hành vi bố thí của các vị Bồ Tát. “Bố thí bất trụ tướng” là cái đức tự nhiên của Bồ Tát. Chúng sanh “bố thí” là để được danh hay được lợi, nếu không thuộc về vật chất cũng thuộc về tinh thần: bố thí để được phúc báo, hoặc được người người mang ân và kính phục, để tỏ ra người ban ân là kẻ đứng trên người thọ ân”.

    Qua hai bản văn trích dẫn ở trên, ta nhận thấy chủ trương của môn phái đó là: không công nhận có Đấng Thượng Đế, là Đấng Tuyệt Đối, là Thiên Chúa, là Ngôi Vị Siêu Việt, “vượt trên vạn sự vạn vật, và trên hết các “nhân vị” khác. Ngoài ra, môn phái này cũng chối bỏ “Linh hồn bất tử”, tức là không có Ta, (NGÃ), tức “Vô Ngã”, không có “nhân vị” tự tại, không có Bản Ngã. Do đó, áp dụng trong việc bố thí là: không có “ai” bố thí, cũng không có “ai” nhận của bố thí cả.

    Ta thấy triết lý của môn phái này đi ngược lại cách thực hành đức Từ Bi của chúng sinh là để cứu vớt một con người cụ thể, một nạn nhân "bão lụt" đang cần ta giúp đỡ. Chúng sinh cũng cầu mong phúc báo, khi làm phúc bố thí. Như ta đã bàn luận ở trên, Tình yêu vị tha, đức Bác Ái chân thật là coi tha nhân như một đối tượng tự tại có giá trị, có nhân phẩm cao quí, nên tự nó đáng yêu, đáng kính, bất kể sang hèn, giầu nghèo, mạnh yếu..Mỗi nhân vị có giá trị nội tại của nó. Mỗi nhân vị, mỗi nguời là một cứu cánh của tình ái, không phải là phưong tiện. Yêu mến Thiên Chúa là kết nghĩa, kết hiệp với một Ngôi Vị Tuyệt Đối, “KHÁC” với hết thảy các nhân vị thuộc loài tương đối. Tuy yêu thương vị tha, vô điều kiện (unconditional love), nhưng vẫn phân biệt “người yêu” và “người được yêu”.

    Bởi vậy, nếu phủ nhận sự tồn hữu của một Đấng Thượng Đế Siêu Việt là Chủ Tể vũ trụ càn khôn, nếu không công nhận có “người” (tha), có “ta” (ngã), nếu tất cả là “vô ngã”, “vô hồn”, thì làm gì còn có yêu thương nữa! Làm gì còn những người, những tâm hồn để trao đổi tình ái cho nhau nữa! Vả lại, nếu thiếu ý niệm về nhân vị, (ngôi vi, bản vị), thì đức Từ Bi, Bác Ái chỉ còn là mối tình thương xót, thương hại mà thôi! Bởi vì “thương hại” không nhằm vào một nhân vị, một cá nhân riêng biệt đang đau khổ, nhưng chỉ chú trọng đến “sự đau khổ” một cách chung chung, tổng quát, như câu nói: đời là bể khổ! Sự đau khổ, sự bất hạnh nói chung, cần phải tiêu diệt, vì chính nó là sự bất hạnh, không cần phân biệt là của ai cả, vì không có “chủ thể”, không có “ai” đó mà đau đớn. Người chịu đau khổ vì bị đâm chém và kẻ gây nên tội ác đều là “vô ngã”, là hư vô! Cho nên, khi khổ thì cam tâm chịu vậy, không phàn nàn trách móc “ai”, không cần tha thứ cho “ai”, vì có”ai” đâu để mà than thân, trách phận, để mà tha thứ ?

     3.  Yêu Thương là Cứu Cánh hay Phương Tiện?

    Nếu không đề cập đến Tình Yêu Sáng Tạo của Một Ngôi Vị Tuyệt Đối, lại cũng chủ trương “vô ngã”, không có bản vị, nhân vị, thì ý niệm về Từ Bi thuộc về ngoại vi (exoteric), không thuộc về bản thể tự tại của một ngôi vị. Người ta sẽ khó trả lời những câu hỏi như: vì lý do gì mà yêu? Yêu dựa trên căn bản nào? Yêu là cứu cánh (mục đích) hay phương tiện? Vì không công nhận mỗi nhân vị có một giá trị nội tại, cũng không cho mỗi nhân vị là một mục đích, cứu cánh của tình yêu thương, nên đức Từ Bi, hay việc Bố thí chỉ còn là một phương thế, một phương tiện để đạt một mục tiêu khác, chẳng hạn để diệt dục, diệt tính ích kỉ. Do đó, đức Từ Bi việc Bố thí, được dùng như một “kỹ thuật” để vượt cái “tôi” ích kỉ (ego), để giải thoát cái “tôi” eo hẹp. Làm phúc bố thí là một phương thế để chứng tỏ, hoặc để tiêu diệt lòng ham muốn của mình mà thôi! Yêu thương không còn là tìm hạnh phúc cho người mình yêu như một mục đích cần phải nhằm tới!(142)

    Trong “Phật Giáo Tinh Hoa”, trang 218-219, viết:” Bởi vậy, tu “lục độ” mà muốn đừng mắc trong lục độ, bị luân hồi sinh tử, thì phải tu “lục độ ba-la-mật”. Lục độ là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. “Lục độ ba-la-mật” tức là “bố thí ba-la-mật”, “trì giới ba-la-mật”, “nhẫn nhục ba-la-mật”, “tinh tấn ba-la-mật”, “thiền định ba-la-mật”, “trí huệ ba-la-mật” (143).

    Ở đây, ta cần chú ý đến thứ tự xếp đặt các lục độ thường và lục độ ba-la-mật. Ta nhận thấy: “Bố thí” là bước đầu trên đường tu đức, là phương thế để dần dần tiến lên các đức tính cao hơn, và đến trí huệ ba-la-mật (bát nhã) là tuyệt đỉnh của việc tu luyện. Do đó, Từ Bi và bố thí chỉ là phương thế để trút bỏ được lòng tham lam ích kỉ, vì diệt dục để tiến đến “vô”, “vô ngã”, mới là mục đích của việc tu luyện.

    Triết lý trên đây khác với quan niệm coi đức Bác Ái, tức lòng “Mến Chúa Yêu người”, làm cứu cánh. Để thi hành đức Bác Ái, nên xây cất bệnh viện, phòng phát thuốc, hay viện trợ thực phẩm... mục đích là giúp đỡ người anh em đang thiếu thốn khổ cực. Công cuộc cứu trợ là vì hạnh phúc của người anh em, chứ không phải vì tư lợi. Nếu người anh em được ấm no, lành mạnh, nhân phẩm được nâng cao, đó là điều đáng mừng! Cũng vì hạnh phúc của con cái mà cha mẹ phải hy sinh đời sống, sức khoẻ, tiền bạc, thời giờ… miễn sao con cái được nên thân nên người! Đó là tình Yêu vị tha, cao đẹp! Dầu đứa con bệnh hoạn tật nguyền, xấu xí... cha mẹ vẫn yêu thương săn sóc đùm bọc. Đối với một tu sĩ “xuất gia tu hành”, nghĩa là từ giã gia đình để vô các tu viện, ta cũng cần phân biệt hai ý hướng khác nhau. Một hạng tu sĩ từ bỏ của cải, ruộng đất, nhà cửa, cha mẹ, anh chị em, vợ con… vì coi những thứ đó tự chúng không giá trị gì, chỉ là những “của nợ”, làm vương vấn ràng buộc khiến tâm hồn không đựợc thảnh thơi, ung dung thư thới. Bởi vậy, người tu sĩ hoan hỉ thoát tục để sống an nhàn, vui thú trong tu viện, mặc kệ cho đời lầm than khổ sở, miễn là mình an thân an phận. Ý hướng tu hành như trên là ích kỉ, không phải do đức Bác Ái vị tha. Trái lại, quan niệm chân chính về việc tu trì là lấy tình “Mến Chúa Yêu người” làm nền tảng và làm chủ đích. Chỉ vì muốn bắt chước tình Yêu vị tha vô hạn của Chúa, chỉ vì muốn nên toàn thiện, chỉ vì muốn cho mọi người nhìn nhận Chúa là Cha, nên người tu sĩ sẵn sàng hiến thân, hy sinh đời sống để hoàn toàn phụng sự Chúa, và dấn thân, đem hết tài năng nghị lực để phục vụ tha nhân, đặc biệt những người kém may mắn, số phận hẩm hiu, bệnh tật, nghèo đói, cần sự giúp đỡ hơn những người khác. (144)

     4.  Tại Sao Yêu?

    Ý nghĩa của đức Bác Ái Thiên Chúa Giáo đặt căn bản trên đoạn sách Kinh Thánh, I Gioan 4:7-12: “Thưa quí vị, chúng ta hãy thương yêu nhau, vì tình thương phát sinh bởi Thiên Chúa. Vì ai yêu thương thì kẻ ấy sinh ra bởi Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không nhận biết Thiên Chúa, Vì THIÊN CHÚA LÀ YÊU THƯƠNG. Thiên Chúa đã tỏ lòng yêu thương chúng ta, bởi đã sai Con Một mình xuống thế gian để chúng ta nhờ Con Một ấy mà được sống. Tình Yêu Thương ấy thật rõ ràng ở chỗ: không phải chúng ta yêu mến Chúa trước mà là Chúa đã yêu thương chúng ta trước và đã sai Con mình giáng thế hy sinh đền tội chúng ta. Thưa anh chị em thân mến, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì chúng ta có bổn phận thương yêu nhau. Chưa ai được xem thấy Thiên Chúa. Nếu chúng ta thương yêu nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta và lòng Chúa thương ta mới trọn vẹn. Chúng ta nhận biết chúng ta ở trong Chúa và Chúa ở trong chúng ta, bởi lẽ Chúa đã ban Thánh Thần mình cho chúng ta”.

    Qua đoạn Kinh Thánh trên, ta nhận thấy một chân lý tuyệt diệu nơi bản thể của Thiên Chúa: Bản Thể Thiên Chúa Là Yêu Thương! Chính vì Chúa yêu thương nên đã sáng tạo ra vũ trụ, đã dựng nên nhân loại và cũng vì yêu thương mà Chúa đã cứu độ nhân loại bằng cuộc Tử nạn và Phục sinh của Đấng Cứu Thế. Tình Ái của Chúa vẫn còn tiếp tục hiện diện và thấm nhuần đời sống của nhân loại. Lửa Yêu Thương này chính là Chúa Thánh Thần, là Thần Khí của Thiên Chúa. Do đó, nếu Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Ta yêu thương tha nhân vì Chúa và qua Chúa. Mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau, vì không thể yêu Chúa mà lại ghét tha nhân là tác phẩm của Chúa được. Khi nào giảm bớt lòng mến Chúa thì cũng suy kém về lòng yêu người. Chính mức độ của tình yêu thương khiến ta trở nên giống Chúa hơn, vì bản tính Thiên Chúa là Tình Yêu. Thiếu lòng Bác Ái đối với tha nhân, thì không thể coi là đã yêu mến Chúa một cách chân thực được. Do đó, lý do ta yêu mến tha nhân, vì là tác phẩm, là “dưỡng tử”, là “hình ảnh” của Chúa. Mỗi người không phân biệt chủng tộc, giai cấp xã hội... đều có giá trị trước mặt Chúa. (145).

    Trong cuốn sách “Thế Giới Quan Phật Giáo”, trang 41, viết: “Sau khi Phật niết bàn, muốn kỷ niệm công đức dạy bảo lớn lao, ở các giảng đường, tịnh xá của chư tăng, các đệ tử tạc tượng Ngài để chiêm ngưỡng. Trong khi ấy có một số ít tín đồ tăng lữ, trình độ thấp kém, sau khi Đấng đức hạnh hoàn toàn đã qua đời, cảm thấy mất hẳn một nương tựa lớn, thành thử họ cứ đến trước hình tượng ấy để lễ bái chiêm ngưỡng, gọi là sự tử như sự sinh, xem đức Phật như lúc sống còn vậy. Nhân thế về sau thành ra hình thức cúng bái, nhất là về sau khi Phật giáo truyền qua Tàu với một dân tộc mà cả lịch sử lẫn lễ nghi phong tục tín ngưỡng đều rất phiền phức. Phật giáo nghiễm nhiên thành một tôn giáo hẳn. Có lẽ bản ý của Ngài truyền giáo xưa, vốn nghĩ để tuỳ theo căn cơ trình độ của các tín đồ cho họ có thể vin theo, đặng để an tâm trên đường học đạo, nhưng về sau cứ sai lạc dần dần, khiến Phật giáo mang hẳn lấy sắc thái tôn giáo, ấy là điều sai lạc bởi hoàn cảnh, thời đại, chứ đâu bởi từ Phật giáo, mà dù nguyên thủy Phật giáo mang một ít hình thức tôn giáo (như lối tổ chức) cùng các giới luật nghiêm khắc của toàn thể tăng già, chỉ là phương tiện thực hành, để đi đến triết lý cao xa, nhưng lại cũng chỉ mượn môn triết lý để đi đến chỗ... chân như thực tướng, bản thể rộng lớn vô biên. Nên tuy rằng Phật giáo không phải tôn giáo, triết học mà cũng có thể là tôn giáo triết học vậy”.

    Như ta đã nhận định nhiều lần, biết rõ được ý tưởng của Phật Thích Ca là điều khó khăn. Vì sinh thời, Ngài thường tránh không trả lời về nhhững câu hỏi liên quan đến siêu hình như sự tồn hữu của một Vị Thượng Đế, hoặc về số phận của các vị Bồ Tát sau khi chết. Do đó, sau khi Ngài đã nhập Niết Bàn, thì có rất nhiều môn phái nổi lên, diễn giảng nhiều giáo thuyết khác nhau. Vì vậy, mới xẩy ra tình trạng: cách thực hành khác với lý thuyết  và dùng phương pháp “Upaya”, nghĩa là “tuỳ căn cơ mà thuyết pháp”, tuỳ trình độ, hoàn cảnh mà diễn giảng. Theo bản văn trên và lịch sử cho biết: Phật Thích Ca không tự nhận là một vị Thần Thánh có quyền thi ân giáng phúc gì, nhưng chỉ vì lòng mộ mến mà mà một số người đã lập ra “hình thức cúng bái”.

    Nhưng nếu chủ trương: hoàn toàn không tin tưởng vào Một Đấng Tuyệt Đối, làm Chủ Tể vạn sự vạn vật, nếu hiểu “Vô Ngã” là cái “Ngã”, cái “tôi” tự nó không có giá trị gì, vì là một hợp chất, hỗn độn do những điều ngu muội, sai lầm tạo nên cái kiếp của một con người,vì ham sống, vì dục vọng mà con người luẩn quẩn trong vòng sinh tử, luân hồi nghiệp chướng, kiếp này là quả báo của kiếp trước, kiếp này làm người, kiếp sau làm súc vật... Do đó, cái cá nhân, cái “ngã” đầy tham vọng ích kỉ đó là vô giá trị cần phải tiêu diệt... Hiểu như vậy, thử hỏi: Nếu tất cả đều là “Vô”, “Vô Ngã”, thì động lực của lòng Từ Bi đối với tha nhân phát sinh từ đâu và dựa trên nền tảng nào?

    Thực ra, cần phải phân biệt trong con người có tiềm ẩn một năng lực tinh thần phi thường có thể vượt trên cái “ngã”, cái “tôi” vị kỉ, cái “Giả Ngã”, tức cái “Ngã” không đích thực, để tiến đến cái “Ngã”, cái “Tôi” chính thực, tức là cái “Chân Ngã” cao siêu. Vì chính mối thiện tâm cốt tuỷ của con người đã bị tính vị kỉ, xấu xa, tham vọng làm hoen ố. Cho nên, giá trị đích thực của con người nằm ở cái “Chân Ngã”, tức cái nhân vị, bản ngã cao quí đã được Thiên Chúa nâng lên hàng “nghĩa tử”, và đã được Chúa Cứu Thế giải thoát. Chính cái “Chân Ngã”, phát xuất từ Đức Bác Ái, tức lòng “Mến Chúa yêu người”, là động lực tạo nên sức mạnh tinh thần, khiến ta hy sinh xả thân vì hạnh phúc của tha nhân. Do dó, những công việc từ thiện, do Đức Bác Ái là động lực thúc đẩy, có tác động cảm hóa lòng người để trở nên tốt lành, và đem lại hạnh phúc thật cho tha nhân.

    5.  Yêu Thế Nào?

    Theo lý thuyết và thực hành, ta có thể diễn tả cách thức biểu lộ Tình Ái trong Thiên Chúa Giáo như sau:

    Vì Thiên Chúa Giáo đặt căn bản của Tình Ái trên Tình Yêu Thương Vô Biên cũa Thiên Chúa đối với mỗi “nhân vị”, và đối với chính bản thân mình, nên không lý do gì ta lại không yêu tha nhân như Chúa đã yêu ta trước. Bởi vậy, đặc tính của tình ái là sự tương thân tương ái giữa người với người, giữa các nhân vị có giá trị tự tại. Do đó, tình ái phải tự nhiên bộc phát, uyển chuyển đáp ứng với hoàn cảnh và nhu cầu của từng cá nhân.

    Đức Bác Ái chân thật đòi hỏi phải phá bỏ mọi bức tường ngăn cách, kỳ thị, chia rẽ phân biệt giai cấp, đấu tranh gây hận thù. Đức Bác Ái, đặt nền tảng trên Tình Yêu Vô Hạn, Bao La của Chúa đối với mọi người bình đẳng, cần được thể hiện trong thực tế bằng cách canh tân vũ trụ này nên tốt đẹp hơn để mọi người được hưởng dùng. Do đó, Đức Bác Ái khích lệ, thúc bách tham gia vào công cuộc cải cách xã hội, khai thác tài nguyên và phát triển khoa học kỹ thuật, vì vũ trụ này là công trình sáng tạo của Đấng Tạo Hóa và Ngài đã trao quyền quản trị cho loài người trông coi. Bởi vậy, các tín hữu cần hăng hái tham gia các công cuộc từ thiện, cứu trợ để xây dựng “Nước Thiên Chúa” nơi trần thế. Vì lý do đó, ta chứng kiến nhiều tổ chức cứu tế xã hội có tầm mức quốc tế đã phát xuất từ các đoàn thể Thiên Chúa Giáo như Hội Hồng Thập Tự, Hội Caritas… Đức Bác Ái chân thật phải đi đôi với việc làm cụ thể là 'làm phúc bố thí”.

    Một hình thức khác để biểu lộ đức Bác Ái là thành lập những Cộng Đồng Tín Hữu. Tình thân ái công đồng đã giúp liên kết các phần tử trong Hội Thánh. Ngoài các giờ phụng tự, tập họp chung để cầu nguyện như các Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, các tín hữu được khuyến khích gia nhập các đoàn thể Công Giáo Tiến Hành để hoạt động tông đồ theo từng lứa tuổi, từng chức nghiệp. Theo giáo luật, mọi tín hữu phải ghi danh vào một giáo xứ, và nhiều giáo xứ liên kết thành địa phận. Những cơ cấu tổ chức có hệ thống chặt chẽ, là cách thế củng cố tình tương thân tương trợ, giúp nhau thực thi đức Bác Ái từ thời Giáo hội sơ khai, noi gương các Thánh Tông Đồ, cho đến ngày nay và mãi về sau. (146).

    Nếu không tin vào sự tồn hữu của Một Vị Thượng Đế là Đấng Tạo Hóa cầm quyền sinh tử, và thưởng công những ai làm điều thiện và phạt kẻ gian ác, nếu không tin có Thiên Chúa Ngôi Vị, thì vũ trụ này là vô-bản-vị, nghĩa là được kết tụ lại bởi luật Karma, Nghiệp-Báo mà thôi! Vì cho mỗi người không có bản ngã, là “vô ngã”, nghĩa là mỗi cá nhân tự tạo cho mình cái nghiệp (karma), nên mỗi cá nhân chỉ là một dòng nghiệp-báo chất chứa kết tụ lại, nhưng luôn biến đổi. Việc tốt hay xấu là tự mình gây cho mình. Mỗi người có một “nghiệp” riêng ngăn cách với tha nhân. Dầu muốn cứu tha nhân, cũng không làm gì được, vì mỗi người phải tự cứu lấy mình. Cùng lắm, ta có thể giúp tha nhân một cách gián tiếp như làm gương sáng cho họ về lòng từ bi hoặc là tránh đừng khơi dậy tính ích kỉ tham lam nơi họ.

    Vì quan niệm về Nghiệp-Báo như trên, nên không cần tổ chức những cộng đồng đông đảo, để cùng tham dự lễ nghi chung, cùng cầu nguyện chung. Mỗi tín đồ lẻ tẻ đến chùa chiền cúng bái tụng niệm. Mỗi tu sĩ tự đi tìm lấy cách thức tu luyện để nhập Niết Bàn, vì con đường giải thoát là riêng tư của mỗi người. Tuy cùng sống trong tu viện, được kỷ luật và sự giáo huấn của các thiền sư hướng dẫn, nhưng căn bản trong đời sống tu trì vẫn là việc tụng niệm, “tọa thiền”, một mình ở một nơi vắng vẻ hiu quạnh. Do đó, công việc từ thiện không có giá trị bằng “tọa thiền”, để tạo cho tâm hồn hoàn toàn bình thản vô tư. “Bố thí Ba-La-Mật”, tức “Bố thí bất trụ tướng” mới có giá trị. “Bố thí bất trụ tướng” là bố thí mà chẳng thấy có mình là người bố thí, cũng chẳng thấy có người được mình bố thí (thọ thí). (147)

    Nếu chủ trương “Vô Ngã”, tức cá nhân không phải là một bản vị có giá trị nội tại, là mục tiêu của việc từ thiện, nhưng là một dòng “nghiệp-báo-cần-phải-được-tiêu-diệt”, thì công cuộc làm phúc bố thí giúp người không phải là chủ đích chính yếu. Điều đáng quan tâm hơn hết, chính là Nghiệp-Báo. Nghiệp thì có thiện nghiệp và ác nghiệp. Đối với bất cứ công việc từ thiện nào, cũng phải thẩm định xem nó gây ra thiện nghiệp hay ác nghiệp cho người làm ra (bất kể việc đó có ích lợi cho kẻ khác). Nếu việc đó gây thêm nghiệp báo cho chính mình thì đừng làm. Vả lại, theo lý thuyết về nghiệp báo thì mỗi cá nhân vừa là tác giả vừa là quản thủ cái nghiệp của mình. Hơn nữa, chính cái nghiệp của mỗi cá nhân nó trói buộc cá nhân đó không sao thoát được. Do đó, người nào tạo nghiệp cho người ấy, kẻ khác chẳng làm gì được, chẳng giúp đỡ gì được để giải gỡ cho họ. Bởi vậy, tại sao ta lo lắng về số phận của tha nhân làm gì?

     Vả lại, ý niệm cho rằng : dục vọng“ham sống” là một sai lầm, vì nó tạo nên nghiệp này qua nghiệp khác, kiếp này qua kiếp nọ không ngừng…, cộng thêm lý thuyết “vô ngã”, và không tin tưởng vào Một Đấng Thượng Đế…, khiến ta tự hỏi: Nhân loại lấy nguồn thần lực, động lực ở đâu để có thể khởi xướng một cuộc cách mệnh, một triết lý về cải cách xã hội, chính trị một cách quyết liệt, và mạnh mẽ? (148).



Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!