Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
Bài Viết Của
Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HIẾN CHẾ GAUDIUM ET SPES
NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN TRONG HIẾN CHẾ LUMEN GENTIUM - CHƯƠNG IV
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (40)
CÁM ƠN LÀ BIẾT SỐNG ĐỨC TIN
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (39)
GIÀU CÓ ĐÓNG CỔNG CON ĐƯỜNG ĐẾN CHÚA VÀ DỮNG DƯNG VỚI ANH EM
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (37).
CỦA CẢI VỮNG BỀN CHO ANH EM
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (36)
CHÚNG TA PHẢI ĂN MỪNG, EM CON ĐÃ CHẾT, MÀ NAY LẠI SỐNG.
“VÁC THẬP GIÁ MÌNH MÀ THEO TA”
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (34)
“AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC TÔN LÊN ”.
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (33)
“HÃY CỐ GẮNG QUA CỬA HẸP MÀ VÀO”
TÌM HIỀU PHÚC ÂM THÁNH LUCA ( 32)
NHẬN BIẾT DẤU CHỈ THỜI ĐẠI ĐỂ CHỌN LỰA MỤC ĐÍCH CHÍNH ĐÁNG
“BỞI ĐÂU TÔI ĐƯỢC THÂN MẪU CHÚA TÔI ĐẾN VỚI TÔI”
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (31)
PHẢI SẴN SÀNG ĐỢI CHỦ VỀ
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (30)
“HÃY LO TÌM NƯỚC THIÊN CHÚA”
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (29)
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XẴ HỘI CỦA GIÁO HỘI (5).
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (28)
"MARIA ĐÃ CHỌN PHẦN TỐT NHẤT"
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (4)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (27)
" AI THÂN CẬN VỚI NGƯỜI BỊ RƠI VÀO TAY KẺ CƯỚP ? "
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HÔI (3)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (26)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (25)
" ANH HÃY THEO TA ! "
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (2).
THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ CỦA THIÊN CHÚA.
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (1)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (23)
NÀNG ĐƯỢC THA THỨ NHIỀU, VÌ NÀNG ĐÃ THƯƠNG YÊU NHIỀU
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (22)
TA TRUYỀN CHO ANH HÃY TRỖI DẬY !
TÌM HIỂU HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (7)

 NGUYỄN HỌC TẬP 

Đặc tính ngôn sứ Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội ( 1978-2005).

Với triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II ( 16.10.1978 - 02.04.2005), sau thời gian rất ngắn ngủi của ĐTC Gioan Phaolồ I ( 26.08 - 28.09.1978), Giáo Hội sống trong thời gian loan báo ngôn sứ về những gì liên quan đến " vấn đề xã hội ".

ĐTC Gioan Phaolồ II không những nhận thức và xác nhận những hiểu biết không lâu trước đó về " vấn đề xã hội " ( trong thời Công Đồng Vatican II, như chúng ta đã có dịp đề cập), nhưng ngài còn khai triển thành một sứ điệp mới, tiếp nối những gì Giáo Hội đã huấn dạy trước đó, mở ra các chân trời của ngàn năm thứ ba Ki Tô giáo sắp đến. 

Vấn đề xã hội từ nay đã vượt khỏi tầm mức lượng số của địa cầu, mà trong đó Giáo Hội đã lo lắng  mở rộng các cuộc đối thoại ( dĩ nhiên là đối thoại với các chủ thể ( persone ) sai lạc, vì bị các chủ đề ( doctrine) lệch lạc, không tưởng mớm ý cho, chớ không bao giờ  Giáo Hội chấp nhận các chủ đề sai lạc , phi lý và vô nhân tính ).

Vấn đề xã hội đã vượt khỏi tầm mức lượng số, để liên quan đến vấn đề " phẩm chất đáng ra phải có của một cuộc sống xứng đáng với phẩm giá con người ".

Các cơn khủng hoảng mất thăng bằng và các vấn đề liên hệ đến phẩm chất vừa nói đã mở rộng ra đến độ vượt lên cả các biên giới vật chất thế giới và đụng chạm thẳng đến những gì liên hệ đến chính đời sống con người, khiến cho không ai có thể định lượng được.

Vấn đề xã hội  là vấn đề hoà bình và có tầm vóc toàn cầu về phẩm chất cuộc sống hay là chết của con người và đến môi sinh ( habitat ). 

Trước tầm mức liên hệ thiết yếu đến phẩm chất như vừa nói, Giáo Hội có những lời chỉ dẫn của mình có thể nói lên ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Sollecitudo rei socialis ( 30.12.1987), n 41, in EV X/2667), bởi lẽ những vấn đề liên quan đến các giá trị và các định hướng luân lý- tôn giáo là chính là lãnh vực thuộc thẩm quyền của Giáo Hội.

ĐTC Gioan Phaolồ II cho biết:

   - " Không phải phận vụ của Giáo Hội là phân tích một cách khoa học các thay đổi xã hội. Trái lại Giáo Hội xác tín rằng phận vụ của mình là góp phần định hướng các thay đổi đó, để có được một tiến bộ thực hữu cho con người và cho xã hội " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Laborem excercens ( 14.09.1981), n. 3, in EV VIII/1392).

Như vậy, những vấn đề mật thiết liên hệ đến bản tính con người như vừa kể, thuộc lãnh vực luân lý và tôn giáo, cho phép Giáo Hội đưa những lời hướng dẫn của mình cho tất cả không phân biệt, vượt lên trên các khác biệt văn hoá, vượt lên trên các hệ thống kinh tế, chính trị và xã hội.

Bởi đó ngay nay " Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội " ai cũng có thể hiểu được và hội nhập, chia xẻ được, bởi lẽ là những lời chỉ dẫn liên hệ mật thiết đến bản tính con người, có cuộc sống cho ra người, người theo chủ nghĩa công sản cũng như theo tân tự do chủ thuyết, dân ở các xứ tiến bộ cũng như người ở các xứ trên đà phát triển, để có được một cuộc sống nhân bản trong những năm 2000 mà chúng ta đang sống.

Qua các Thông Điệp của ĐTC Gioan Phaolồ II, chúng ta thấy được đặc tâm của Giáo Hội đã chuyển bước sự chú ý từ các hệ thống chính trị và kinh tế, đến chính con người, từ phương diện lượng số đến lãnh vực phẩm chất.

Ngày nay mối lo âu đặt trọng tâm của các Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội đó là làm thể nào

   - cứu vản lại được các giá trị đang bị khủng hoảng ( đời sống, gia đình, việc làm ),

   - cung cấp một linh hồn luân lý cho một xã hội mới ( làm chính trị để phục vụ con người và phục vụ công ích, chớ không phải để lo cho đầy túi cá nhân và phục vụ cho Đảng và Nhà Nước),

   - đưa đến cho con người ,một viễn tượng đầy hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn cho cả nhũng ai nghèo khổ trong một xã hội với cuộc sống sung mãn. 

Nói một cách ngắn gọn, Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội ngày nay là những gì Giáo Hội huấn dạy qua động tác đọc " các dấu  chỉ thời đại " dưới ánh sáng Phúc Âm,

   - để đón nhận được ý nghĩa lịch sử

   - và từ đó đặt nền tảng cho một cuộc sống văn minh tình thương, cùng với tất cả những người thành tâm thiện chí.

Giáo Hội hiện đại đang sống với sứ mạng ngôn sứ của mình. Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội hiện đại, trả lời lại cho những thử thách của thời đại chúng ta, căn bản là lời loan báo tiên tri của Phúc Âm về phẩm chất của đời  sống, việc làm và đức bác ái của con người đối với anh em mình. 

Diễn từ của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger được tuyển chọn ( 19.04.2005) kế vị ĐTC Gioan Phaolồ II càng xác nhận hơn nữa những gì chúng ta vừa đề cập đến.

   1 - Phúc Âm của đời sống. 

Thử thách nguyên cội của cơn khủng hoảng về phẩm chất vừa đề cập là chủ đề chính yếu của Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội. Đó là huấn dụ nhận biết đời sống con người có giá trị tuyệt đối, không thể nhân nhượng, tương đối hoá đối với bất cứ một giá trị nào khác.

Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội xác nhận rằng mạng sống con người không thể đem so sánh với những giá trị nào khác cả đối với những tài sản quan trọng như sức khoẻ, các tiện nghi cho đời sống, lợi thú kinh tế, nghiên cứu và tiến bộ khoa học.

Đối với những lợi thú vừa kể, chúng ta xác nhận được thường khi mạng sống con người bị đặt vào hạng thứ, trong cách hành xử của thế giới ngày nay. 

Dầu cho tâm trạng của thế giới có như vậy, nhưng Giáo Hội " không thể bỏ rơi con người ". Đó là những gì ĐTC Gioan Phaolồ II đã lớn tiếng nói lên ngay cả trong thông điệp đầu tiên của ngài, Thông Điệp Redemptor hominis:

   - " Con người là con đường tiên khởi mà Giáo Hội phải bước đi để chu toàn sứ mạng của mình, con người là con đường trước tiên và căn bản của Giáo Hội " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Redemptor hominis ( 04.03.1979),n. 14,in EV VI/1209).

Bởi đó đặc tính đầu tiên Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội ngày nay là bảo vệ phẩm giá tối thượng tuyệt đối của con người. Mạng sống con người không thể trở thành một giá trị thứ yếu trong bất cứ trường hợp nào.

Chuyên tâm của Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội ngày nay là đào tạo một lương tâm mới, tác động không mệt mỏi để thiết lập lại một sự đồng thuận phổ quát về đời sống con người, như là giá trị tuyệt đối của luân lý.

Bởi đó các Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội luôn luôn nhấn mạnh, như chưa bao giờ xảy ra trong quá khứ, về quyền được sống như là nguyên tắc và nền tảng của tất cả mọi quyền khác: có quyền được bảo đảm tự do lương tâm, tự do ngôn luận, tự do hội họp để làm gì, nếu giá trị tuyệt đối của quyền được bảo toàn mạng sống bị chối bỏ?

Thực chất của vấn đề là con người ngày nay với ý nghĩa về Thiên Chúa và về Thiên Chúa duy nhứt, tuyệt đối, nền tảng giá trị tuyệt đối của con người, của phẩm giá con người, của quyền tự do và các quyền của mình.

Lịch sử đã từng chứng minh rõ ràng ý nghĩa về Thiên Chúa và ý nghĩa về con người, hoặc là cùng đi chung với nhau, hoặc là cùng bị tha hóa chung nhau:

   - " Một khi ý nghĩa về Thiên Chúa bị mất đi, ý nghĩa về con người cũng bị hăm doạ và ô nhiểm " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Evangelium vitae ( 25.03.1995), n. 22., in EV XI/2234).  

Từ đó tạo ra " cái vòng lẩn quẩn " tai hại:

   - " mất đi ý nghĩa về Thiên Chúa, con người cũng có khuynh hướng đánh mất đi ý nghĩa về con người, về phẩm giá và giá trị đời sống của con người. Từ đó có thể dễ dàng bước đến việc vi phạm có hệ thống lề luật luân lý ( ...), tạo ra sự hiện diện một loại tiến trình tối tăm hoá khả năng nhận ra sự hiện diện đời sống và cứu độ của Chúa " ( id., n. 21, in EV XIV/2231).

Hậu quả của những gì vừa kể, đó là đời sống mất đi ý nghĩa của nó và cũng từ đó mất đi những gì là phẩm chất cá biệt làm cho đời sống " người cho ra người " : con người rơi vào không thể tránh được duy vật chủ nghĩa đê tiện hoá con người, mà ai trong chúng ta cũng biết:

   - " Những giá trị của sụ hiện hữu con người bị đổi thành những giá trị có của cải. Mục đích duy nhứt có ý nghĩa, đó là làm sao đạt được sự phồn thịnh vật chất. Cái gọi là " phẩm chất của đời sống " được giải thích bằng cách dành ưu tiên hay hoàn toàn cho hiệu năng kinh tế, tiêu thụ loạn xạ, sắc đẹp và hưởng thụ thể lý, quên đi những chiều kích sâu đậm hơn - liên hệ, thiêng liêng và tôn giáo - của cuộc sống " ( id., n.25, in EV XIV/2239).  

Điều vừa kể giải thích hiện trạng nghịch lý mà thế giới hiện đại đang gặp phải:

   - " Một đàng là những lời tuyên bố khác nhau về các quyền của con người ( ...) họ cho rằng hiện có sự xác nhận cở tầm mức thế giới tinh thần cảm nhận luân lý chú tâm hơn nhận biết giá trị và phẩm giá của mỗi con người như là người, không phân biệt phái giống, quốc tịch, tôn giáo, chính kiến, cấp bậc xã hội. Nhưng đàng khác, đối với những lời tuyên bố cao qúy đó rất tiếc lại có, trên thực tế, một sự khước từ thảm đạm đối chọi lại ", và ĐTC Gioan Phaolồ II kết luận, " từ xã hội cùng " chung sống với nhau ", các thị xã của chúng ta có nguy cơ trở thành xã hội của những kẻ bị loại ra bên ngoài " ( id., n. 18, in EV XIV/2222). 

Trước cơn khủng hoảng thảm đạm về ý nghĩa và phẩm chất con người đối với cuộc sống, Giáo Hội ngày nay với Huấn Dụ Xã Hội của mình đáp ứng lại như là một ngôn sứ.

Giáo Hội nhắc nhớ rằng con người được kêu gọi để có một cuộc sống trọn hảo, vượt khỏi các tầm mức trần thế, kinh tế, xã hội và chính trị, để rộng mở mình ra tham dự vào chính đời sống Thiên Chúa.

Đó là vấn đề " nhân bản luận ". 

Giáo Hội không khiếp đảm trước thái độ khước từ của những ai cho rằng thái độ của Giáo Hội là thái độ lỗi thời. Bởi vì Giáo Hội

   - " biết rằng Phúc Âm nầy của đời sống, được Chúa trao cho Giáo Hội, có tiếng vang sâu đậm trong tâm hồn mỗi người, tín hũu cũng như những ai không tin, bởi vì Phúc Âm vượt lên trên muôn lần các nỗi mong đợi, đáp ứng lại tiếng vang đó một cách lạ thường. Mặc cho các khó khăn và nhiều nghi vấn, mỗi con người thành thật rộng mở mình ra cho chân lý và sự thiện, với ánh sáng của lý trí và dĩ nhiên không thiếu ân sủng được ban cho trong thầm kín, có thể đạt đến nhận ra được trong luật tự nhiên được ghi khắc vào tâm khảm mình giá trị thiên thánh của đời sống con người từ lúc tiên khởi cho đến thời điểm cuối cùng và xác nhận được rằng mỗi người đều có quyền thấy được quyền tối thượng đó của mình phải được tôn trọng. Cuộc chung sống của nhân loại và của chính cộng đồng chính trị được đặt nền tảng trên sự nhận biết vừa kể " ( id., n.2,in EV XIV/2170). 

Điều vừa kể giải thích tại sao Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội trong những thập niên cuối cùng nầy nhấn mạnh rất nhiều đến gia đình, đến việc cần thiết phải bắt đầu giải quyết cơn khủng hoảng về giá trị cuộc sống bằng cách giải quyết cơn khủng hoảng gia đình:

   - " Cần phải trở lại nhận biết gia đình như là thánh điện của đời sống. Thật vậy, gia đình là thiên thánh; là nơi mà trong đó đời sống, ơn Chúa ban cho, có thể được đón nhận một cách thích hợp và bảo vệ chống lại bao nhiêu cuộc tấn công mà đời sống phải đối kháng, và là nơi mà trong đó đời sống có thể được triển nở theo các đòi hỏi để có được một cuộc tăng trưởng nhân loại thích đáng. Chống lại cái gọi là văn hoá của sự chết, gia đình là nơi chốn của văn hoá sự sống " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Centesimus annus ( 01.05.1991), n. 39, in EV XIII/199). 

( Xem thêm Phúc Âm của sự sống, cfr.Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội ( Compendio della Dottrina sociale della Chiesa), n.231). 

   2 - Phúc Âm của việc làm.

Bối cảnh kết thúc thảm đạm của xã hôi chủ nghĩa thực tế sai lầm, không tưởng chưa phải là chiến thắng của tư bản chủ nghĩa.

Nếu lịch sử đã chứng minh đường lối của xã hội chủ nghĩa là lối suy tư sai lầm, phi lý, không tưởng ( utopia, Hy Lạp, " u ": không; " topos ": nơi chốn = tức là ý thức hệ không thể thực hiện được ở bất cứ nơi nào trên thế giới), điều đó không có nghĩa là hiện nay, sau khi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa không tưởng đã kết thúc, cũng đã biến mất các mối tuơng phản bất công của tư bản chủ nghĩa, mà từ đó xã hội chủ nghĩa được nảy ra.

Nếu đứng trước những đống gạch vụn của bức tường Bá Linh sụp đổ, tư bản chủ nghĩa có thể chứng minh được có khả năng sản xuất và phân phối mức giàu có, nhưng trong tư bản chủ nghĩa còn có một cái gì đó bất ổn, sai lầm. Đó là ngay ở các Quốc Gia Tây Phương, con người rất nhiều lần bị tước bỏ đi phẩm giá và trở thành nô lệ cho các nhu cầu không thiết thực của mình, tạo nên bận tâm bực bội, bất đắc chí và thúc đẩy đến hối lộ, bè phái, bất kể công lý.

Giáo Hội nhận biết vai trò chính đáng của lợi nhuận, như là dấu chỉ mức độ tiến trình tốt đẹp của xí nghiệp. Nhưng lợi nhuận không phải là dấu chỉ duy nhứt, động lực chính yếu của phát triển và sản xuất,

   - " nếu các tiêu chuẩn kế toán kinh tế đều hoàn toàn tốt đẹp, nhưng cùng chung đó có những con người, là thành phần qúy giá của tài sản xí nghiệp lại bị đê tiện hoá và phẩm giá của mình bị xúc phạm " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Centesimus annus ( 1991), n. 35, in EV XIII/187).  

Những Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội gần đây đã cho biết lý do sâu xa tạo ra những tình trạng nghịch thường trong tư bản chủ nghĩa vẫn còn tồn tại, mặc cho xã hội chủ nghĩa đã phá sản, đó là sự kiện việc làm của con người ( cũng như đời sống của con người ) đã bị tư bản chủ nghĩa đánh mất đi giá trị đích thực của nó.

Ở đây cũng vậy, chúng ta đang đứng trước cơn khủng hoảng về giá trị, về ý nghĩa, được thể hiện ra trong hiện trạng đổ vở và đối nghịch bất tự nhiên giữa con người và động tác sáng tạo của việc làm, giữa việc làm và tư bản, của cải, giữa người làm việc và phẩm chất của đời sống mình.

Từ thái độ chán ngán tâm lý đối với công việc thường nhật đến các hình thức đàn áp của tân chủ nghĩa thuộc địa kinh tế quốc tế, việc mất đi ý nghĩa việc làm của con người chắc chắn là một yếu tố căn bản của cơn khủng hoảng hiện tại, bên cạnh việc mất đi ý nghĩa của cuộc sống.

Các câu hỏi được đặt ra về làm việc đươn kết với những câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống và sống trong hoàn cảnh không có gì hứng khởi như vậy.

Biết bao nhiêu người làm việc chỉ thấy việc làm là đinh mệnh khó khăn đầy lao lực, việc làm chỉ là phương tiện để kiếm sống, hơn là những gì tốt đẹp có thể làm cho mình  triển nở và giúp cho xã hội phát triển, tức là giúp cho anh em đồng bào và đồng loại của mình có được một cuộc sống tiện nghi hơn, thoải mái hơn, tự do hơn, xứng đáng với phẩm giá con người hơn !    

Dĩ nhiên, ngày nay không ai có ý nghĩ ngồi thảo ra trên  lý thuyết một khuôn mẫu xã hội - kinh tế mới, thay thế cho những ý thức hệ không tưởng đã phá sản thất bại, dầu vậy chúng ta nghĩ rằng đây là thời điểm cần phải đặt nền tảng cho khuôn mẫu lý tưởng đó.

Nhãn quang phẩm chất và tìm kiếm ý nghĩa đó là đặc tính cá biệt Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội. Giáo Hội xác tính rằng mình có thể hiến tặng cho nhân loại chìa khoá giải đáp thoả đáng, bằng cách loan báo cho tất cả Phúc Âm của việc làm:

   - " Nếu giải pháp, hay đúng hơn giải pháp tuần tự vấn đề xã hội, là vấn đề vẫn tiếp tục hiện diện càng lúc càng phức tạp hơn, giải pháp đó cần phải được tìm kiếm trong định hướng làm sao cho đời sống xứng đáng với con người hơn, hiểu như vậy việc làm của con người có tầm quan trọng nền tảng và quyết định " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Laborem exercens ( 14.09.1981), n. 3, in EV VII/1398). 

Tiếp tuc hành trình theo con đường con người, đã được khởi sự ngay từ thời gian khởi thủy của triều đại giáo hoàng, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II nhắc nhở cần phải đặc tâm chú ý đến việc làm, như là phương diện nền tảng của đời sống con người, chính trong lúc cuộc cách mạng kỷ thuật đang thay đổi sâu đậm đến chu kỳ sản xuất, hoặc đến các liên hệ việc làm đối với con người.

Giáo Hội ý thức rằng

   - " hiện nay chúng ta đang ở trước thềm các phát triển mới về kỷ thuật, kinh tế và chính trị, mà theo nhiều người có kinh nghiệm, những phát triển mới đó sẽ có ánh hưởng đến thế giới việc làm và sản xuất không có gì kém hơn cuộc cách mạng kỷ nghệ của thế ky vừa qua " ( id., n.1,in EV VII/1391).  

Trước trạng huống vừa kể, ĐTC Gioan Phaolồ II kết luận,

   - " cần phải gắp rút khám phá ra những ý nghĩa mới về việc làm của con người và đề thảo ra những bổn phận mới cần phải đáp ứng giải quyết " ( id., n.2, in EV VII/1393). 

Và đây là ý nghĩa đích thực việc làm của con người, khối nhân cội của Phúc Âm việc làm, được chứa đựng trong nguyên tắc sau đây:

   - " Nền tảng để xác định giá trị việc làm của con người, trước tiên không phải là loại việc làm nào mà con người thực hiện, nhưng sự việc là người đứng ra thực hiện việc làm đó là một con người. Căn nguyên của phẩm giá việc làm cần phải được tìm ra, không phải dựa trên tầm mức đối tượng, mà trên tầm mức chủ thể ", nói một cách ngắn gọn, " việc làm có mục đích là làm cho con người chớ không phải con người chỉ nhằm cho mục đích làm việc " ( id., n.6, in EV VII/1414).

Dưới ánh sáng Phúc Âm của việc làm vừa kể, chúng ta có thể hiểu được tại sao cả tư bản chủ nghĩa, chớ đừng nói gì xã hội chủ nghĩa, cũng không thể là giải pháp thoả đáng.

Cần phải vượt ra bên ngoài nhãn quang thuần kinh tế và nhận biết rằng chủ thể đích thực của tiến trình sản xuất chính là con người.

Trên thực tế, điều đó có nghĩa là việc làm sẽ có được ý nghĩa đích thực và phẩm giá siêu việt của mình, chỉ khi nào tổ chức xã hội con người quan tâm đến ba phương diện nền tảng phải có của việc làm.

   a) Trước tiên việc làm cần phải luôn luôn được nhìn nhận như là chính một động tác của chính  con người:

   - " Như là người, con người là chủ thể của việc làm. Như là con người, người làm việc thực hiện các động tác liên quan đến tiến trình làm việc; các động tác đó, không tùy thuộc vào nội dung đối tượng của chúng, tất cả đều lợi ích để làm triển nở thành đạt nhân tính của người làm việc " ( id.).

   b) Kế đến cần phải ý thức rằng việc làm của con người là một động tác sáng tạo

   - " luôn luôn là nguyên cớ hiệu lực tiên khởi, trong khi đó thì tiền bạc, tư bản, cùng chung với những phương tiện sản xuất khác, vẫn chỉ là một phương tiện ". Tiền bạc, tư bản " được việc làm của con người sinh ra và mang nơi mình các ấn tín của việc làm con người " ( id., n. 12, in EV VII/1439).

Đặc tính ưu tiên nặng nhọc của con người trên tiền bạc,tư bản và trên cả tiến trình sản suất được Phúc Âm của việc làm nhấn mạnh, với ý thức rằng

   - " qua việc làm của mình, con người tham dự vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa " ( id., n. 25. in EV VII/1499) .

Không những vậy. Phúc Âm của việc làm còn làm cho chúng ta biết mồ hôi và mệt nhọc, bạn đồng hành bất khả phân ly của mỗi động tác con người, thay vì làm cho con người xấu xí hơn, chúng làm cho con người trở thành cộng sự viên của Chúa Ki Tô, " Con Người của việc làm " tuyệt hảo (id., n. 26, in EV VII/1504-1510).

   c) Bởi lý do đó, chúng ta còn có phương diện thứ ba của việc làm cần đặc tâm lưu ý: đó là việc làm tự bản thể của mình là một động tác liên đới , liên đới giữa các người làm việc với nhau, cũng như liên đới với những người khác.

Liên đới, như là những gì thoát xuất từ ý nghĩa đích thực của việc làm con người, không thể phải là liên đới để chống lại ai, liên đới tiêu cực, mà tự bản thể của mình, liên đới là liên đới với và cho ai, liên đới tích cực và xây dựng:

   - " Thật vậy, một sự liên đới để chống báng đối nghịch với người khác, liên đới đó có thể có được lý chứng nào để biện giải cho, liên đới để chống những người khác ? ( ...) Sự liên đới có nguồng gốc và nghị lực của mình trong bản thể việc làm của con người, tức là trong địa vị thượng đẳng của con người trên các sự vật, sẽ là sự liên đới biết tạo nên các phương tiện để đối thoại và cộng tác " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Discorso alla 68° sessione della Conferenza iternazionale del lavoro ( Ginevra, 15.06.1982), in Osservatore Romano ( 16.06.1982).  

Như vậy Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, được đặt lên phía bên kia xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Sau khi đã tìm được trong việc làm chìa khóa thiết yếu để giải quyết " vấn đề xã hội " , cho thấy rằng dưới ánh sáng Phúc Âm của việc làm , chúng ta có thể trả lại cho việc làm của con người ý nghĩa thiết thực của nó và đặt nền tảng trên việc làm một nền liên đới mới, mở rộng ra để có thể gặp gỡ được mọi người thành tâm thiện chí.

( Tài liệu học hỏi thêm, Phúc Âm của việc làm, cfr. n. 269, Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội). 

 3 - Phúc Âm của bác ái.

Bác ái là chất xi măng mà người tín hữu Chúa Ki Tô pha trộn  vào trong việc kiến tạo xã hội con người:

   - " Đức bác ái xây dựng" ( I Cor 8, 1), nói như Thánh Phaolồ.

Và Công Đồng Vatican II chú giải: lời Chúa mạc khải cho chúng ta rằng

   - " Thiên Chúa là bác ái và dạy chúng ta rằng lề luật nền tảng sự thiện hảo của con người, và vì đó cũng là nền tảng của việc hoán chuyển thế giới, là giới răn mới về đức bác ái. Bởi đó ai tin vào lòng bác ái của Thiên Chúa, là những người được Thiên Chúa bảo chứng cho rằng con đường bác ái được rộng mở cho tất cả mọi người và những cố gắng nhằm thực hiện tình huynh đệ phổ quát cho tất cả không phải là những động tác hư không " ( Gaudium et spes, n. 38, in EV I/1437).  

Bác ái Ki Tô giáo vượt lên trên cả lòng nhân ái ( philantropie) thông thường.

Thật vậy bác ái Ki Tô giáo không phải chỉ là tuân giữ lề luật vàng ngọc:

   - " Những gì anh em muốn thiên hạ làm cho anh em, cả anh em, anh em cũng hãy làm cho họ " ( Mt 7, 12); vượt lên cả trên giới răn cỗ xưa:

   - " Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình " (Mt 22, 39). 

Như vậy, điều quan trọng là xác nhận rõ ràng bản thể " mới " và siêu nhiên của đức bác ái Ki Tô giáo:

   - " Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em " ( Jn 15, 12). 

Qua câu Phúc Âm vừa trích dẫn, đức bác ái Ki Tô giáo là yêu thương người khác cũng bằng chính tình yêu thương siêu nhiên của Thiên Chúa, đang ở trong mỗi người tín hữu Chúa  Ki Tô chúng ta.

Đức bác ái đích thực là nhân chứng có khả năng làm cho người khác thấy được Thiên Chúa là Đấng vô hình:

   - " Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo " ( 1 Jn 4, 12).

Lời huấn dạy nầy của Phúc Âm, được xác nhận qua hai ngàn năm lịch sử, giải thích tầm quan trọng quyết định của Huấn Dụ và cho thấy tại sao Giáo Hội liên kết đức bác ái với sứ mạng nhân chứng khả tín rao giảng Phúc Âm:

   - " Bác ái ở tại trung tâm điểm của Phúc Âm và là dấu chứng thúc đẩy tin vào Phúc Âm " ( CEI, Evangelizzazione e testimonianza della carità, n. 9., in ECEI IV/2727).

Điều vừa kể cũng cho thấy đức bác ái là yếu tố không thể thiếu trong việc kiến tạo một xã hội nhân bản, có tầm vóc xứng đáng với phẩm giá con người. 

Điều đó cho thấy tại sao ĐTC Gioan Phaolồ II cho biết:

   - " các chủ đề và định hướng nổi bậc được Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội lập lại trong những năm gần đây, ở vị trí hàng đầu là " thái độ lựa chọn hay tình yêu thương cá biệt dành cho ngưòi nghèo khổ ".

Thật vậy ngày nay, ĐTC còn nói thêm:

   - " vấn đề xã hội có tầm mức lan rộng mà chúng ta nghĩ đến đã ảnh hưởng đến khắp thế giới, tình yêu thương dành riêng vừa kể với những quyết định gợi ý cho chúng ta, không thể không bao gồm đoàn lủ bao la dân chúng đang đói khát, đang hành khất ăn xin, những kẻ vô gia cư, những ai không có được một sự bảo đảm y tế nào, nhứt là những ai không có một hy vọng nào về tương lai khả quan hơn (...) Cuộc sống hằng ngày của chúng ta cần phải được đánh dấu bằng các thực thể đó, cũng như các quyết định của chúng ta trong lãnh vực chính trị và kinh tế " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Sollecìtudo rei socialis ( 30.12.1987), n. 42, in EV X/2673s).   

Dành tình yêu thương bác ái một cách riêng biệt cho người nghèo khổ bắt buộc mở đường cho chủ đề giải thoát Ki Tô giáo. Đó là giải thoát người nghèo khỏi mọi hình thức nô lệ, nhứt là khỏi các hình thức " bần tiện hoá mới " đối với con người và khỏi " các cơ cấu tội lỗi " , tức là khỏi các tình trạng cơ chế bất công xã hội, trong đó gánh nặng đổ ập xuống nhứt là trên các giới yếu thế, " dân oan ", " phụ nữ và trẻ em gái vị thành niên phải bán thân nuôi miệng", " dân đói khổ phải bị bốc lột xuất khẩu lao động ", " dân đi đòi nhà bị trấn nước", " dân trước toà án bị bịt miệng " chẳng hạn. 

Như vậy loan báo Phúc Âm của đức bác ái là đấu tranh để giải thoát người nghèo khổ, những người bị bạo lực đàn áp và tất cả những ai bị bỏ rơi, phải sống bên lề xã hội.

Thật vậy, đức bác ái, khi nào là bác ái đích thực và công chính, không thể nào không hàm chứa nơi mình sự kính trọng và động tác thăng tiến công lý.

Có ý nghĩa gì cung hiến cho một ai đó một cách nhưng không có sự liên đới của mình, nếu đồng thời không chấp nhận điều mà đáng lý anh ta phải có được do chính quyền anh ta chính đáng được có? 

Tranh đấu cho công lý, tự nó đã là tình yêu thương, bác ái. Thái độ " lách sang rồi bỏ đi luôn " của thầy tư tế và thầy thông thái luật, trước người Samaritano bị kẻ cướp đánh nửa sống nửa chết bên đường, không những là thái độ thiếu bác ái, mà còn là thái độ hèn hạ và đồng lỏa với kẻ ác ( Lc 10, 29-37). Đó có  phải là cách hành xử chính đáng của người tín hữu Chúa Ki Tô hay không?

Bởi đó ĐTC Phaolồ VI cho biết việc chuyên cần dấn thân cho công lý của người tín hữu Chúa Ki Tô là   

   - " lượng độ tối thiểu của đức bác ái " ( ĐTC Phaolồ VI. Discorso ai campesinos ( Bogotà, 23.08.1968), in L'Osservatore Romano ( 25.08.1968). 

Nhưng xác định vừa kể vẫn chưa đủ, ĐTC Gioan Phaolồ II nói thêm

   - " Công lý tự mình thôi, chưa đủ, mà đúng hơn có thể đưa đến sự chối bỏ và tiêu diệt chính mình, nều không có chỗ cho mãnh lực sâu xa hơn, đó là tình yêu thương, sắp xếp thiết định đời sống con người trong các chiều kích khác nhau của nó " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Dives in misericordia ( 30.11.1980), n. 12, in EV VII/ 926).

Và ĐTC nói lên lý chứng tại sao cần phải có bác ái, để làm cho công lý được thực hiện hoàn hảo:

   - " Bình đẳng được hội nhập vào cuộc sống qua công lý, chỉ giới hạn được áp dụng vào lãnh vực các các thực thể khách quan và ngoại tại, trong khi đó thì tình yêu thương và nhân từ làm cho con người được gặp nhau , giữa họ với nhau, trong chính giá trị của con người, với phẩm giá cá biệt của con người " ( id., n. 14. in EV VII/ 941).   

Như vậy cùng đồng hành với việc loan báo Phúc Âm của bác ái, Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội chỉ dẫn cho chúng ta trong tổng kết giữa công lý và liên đới hỗ tương phương thế quyết định để kiến tạo một xã hội mới xứng đáng với tầm vóc con người.

Một đóng góp quyết định trong chiều hướng vừa kể, chúng ta có thể tìm được trong Thông Điệp của Đức Thánh Cha Benedictus XVI, Deus caritas est, trong đó ĐTC kết luận:

   - " Xác quyết cho rằng các cấu trúc chính đáng làm cho trở thành vô nghĩa các động tác bác ái thực tế là xác quyết che giấu bên dưới quan niệm vật chất về con người; đó là tiền kiến cho rằng con người có thể sống chỉ nhờ bánh mà thôi ( Mt 4, 4 cfr. Dt 8, 3). Đó là xác tín đê tiện hoá con người và phủ nhận chính những gì cá biệt  của con người " ( ĐTC Benedictus XVI, Deus caritas est, ( 23.12.2005), n. 28).  

( Nghiên cứu thêm về Phúc Âm của bác ái, cfr. n. 4-6, Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội , Compendio della dottrina sociale della Chiesa). 

 

Tác giả: Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!