Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
Bài Viết Của
Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HIẾN CHẾ GAUDIUM ET SPES
NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN TRONG HIẾN CHẾ LUMEN GENTIUM - CHƯƠNG IV
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (40)
CÁM ƠN LÀ BIẾT SỐNG ĐỨC TIN
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (39)
GIÀU CÓ ĐÓNG CỔNG CON ĐƯỜNG ĐẾN CHÚA VÀ DỮNG DƯNG VỚI ANH EM
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (37).
CỦA CẢI VỮNG BỀN CHO ANH EM
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (36)
CHÚNG TA PHẢI ĂN MỪNG, EM CON ĐÃ CHẾT, MÀ NAY LẠI SỐNG.
“VÁC THẬP GIÁ MÌNH MÀ THEO TA”
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (34)
“AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC TÔN LÊN ”.
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (33)
“HÃY CỐ GẮNG QUA CỬA HẸP MÀ VÀO”
TÌM HIỀU PHÚC ÂM THÁNH LUCA ( 32)
NHẬN BIẾT DẤU CHỈ THỜI ĐẠI ĐỂ CHỌN LỰA MỤC ĐÍCH CHÍNH ĐÁNG
“BỞI ĐÂU TÔI ĐƯỢC THÂN MẪU CHÚA TÔI ĐẾN VỚI TÔI”
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (31)
PHẢI SẴN SÀNG ĐỢI CHỦ VỀ
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (30)
“HÃY LO TÌM NƯỚC THIÊN CHÚA”
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (29)
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XẴ HỘI CỦA GIÁO HỘI (5).
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (28)
"MARIA ĐÃ CHỌN PHẦN TỐT NHẤT"
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (4)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (27)
" AI THÂN CẬN VỚI NGƯỜI BỊ RƠI VÀO TAY KẺ CƯỚP ? "
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HÔI (3)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (26)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (25)
" ANH HÃY THEO TA ! "
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (2).
THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ CỦA THIÊN CHÚA.
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (1)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (23)
NÀNG ĐƯỢC THA THỨ NHIỀU, VÌ NÀNG ĐÃ THƯƠNG YÊU NHIỀU
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (22)
TA TRUYỀN CHO ANH HÃY TRỖI DẬY !
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ TIN

 

 

 

 

SUY NIỆM PHÚC ÂM ( IV C 21 ); ( 31.03.2013); ( Jn 20, 1-9).

 

CHÚA NHẬT LỄ PHỤC SINH, NĂM C

 

 

 

NGUYỄN HỌC TẬP

 

 

 

Thánh Gioan viết các đoạn Phúc Âm tường thuật lại biến cố Chúa Giêsu sống lại rất súc tích có nhiều mục đích khác nhau:

 

 

 

- a ) Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chết trên thập giá là chính Chúa Giêsu đang sống, hiện diện và năng động trong Giáo Hội của Người, như Thánh Marco trong câu kết thúc Phúc Âm của Ngài, kể lại ngày Chúa Giêsu từ giã các Môn Đệ để về cùng Chúa Cha:

 

 

 

- " Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng" ( Mc 16, 19-20).

 

 

 

- b ) Cái chết của Chúa Giêsu không phải là một sự thất bại và bất lực của Thiên Chúa, mà là một biến cố mạc khải cực điểm tình yêu của Người đối với nhân loại.

 

 

 

- c ) Trình bày cho chúng ta thế nào là diễn tiến nẩy sinh và triển nở Niềm Tin Phục Sinh nơi các Môn Đệ.

 

 

 

Trong bài Suy Niệm Phúc Âm hôm nay, chúng ta giới hạn vào mục đích cuối cùng vừa kể để tìm hiểu sứ điệp Thánh Gioan muốn gởi đến chúng ta.

 

Dĩ nhiên viết Phúc Âm với mục đích vừa kể, trình bày tiến trình nẩy sinh và lớn mạnh lên của Niềm Tin Phục Sinh nơi các tín hữu Chúa Ki Tô, nơi các Môn Đệ trước tiên và nơi chúng ta, con cái của các Ngài trong đức tin kế đến, Thánh Gioan không có ý tường thuật lại cho chúng ta chính xác và gồm đủ mọi chi tiết của các biến cố xảy ra trong ngày Chúa Giêsu Phục Sinh, cho bằng nói lên cho chúng ta ý nghĩa mầu nhiệm của Chúa Phục Sinh, tiến trình nhận ra ý nghĩa đó và việc đón nhận mầu nhiệm Chúa Phục Sinh vào đức tin.

 

 

 

A - Đoạn Phúc Âm hôm nay giới thiệu cho chúng ta việc nẩy sinh và triển nở Niềm Tin Chúa Giêsu Phục Sinh nơi " người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến" ( Jn 20, 2).

 

Đoạn Phúc Âm vừa được đề cập, là một trong bốn đoạn tường thuật lại diễn tiến biến cố Chúa Phục Sinh đối với các Môn Đệ và những người thân tín của Người:

 

 

 

 - Bà Maria Magdala đến viếng mộ ( Jn 20, 1-3).

 

 - Hai Môn Đệ Simon Phêrô và Gioan chạy đến mộ ( Jn 20, 3-9),

 

 - Chúa Giêsu hiện ra cho ba Maria Madgala ( Jn 20, 11-18)

 

 - Chúa Giêsu hiện ra cho các Môn Đệ bửa tối, nơi các Ngài cư ngụ và Thánh Tôma cứng lòng tin ( Jn 20, 19-29).

 

 

 

Tất cả bốn đoạn Phúc Âm vừa kể từng tự, chuẩn bị đồng quy để đưa đến câu kết cuối cùng của chương Phúc Âm nói về ngày Phục Sinh:

 

 

 

- " Phúc thay cho những người không thấy mà tin " ( Jn 20, 29).

 

 

 

Theo dỏi diễn biến hai đoạn đầu tiên của đoạn Phúc Âm trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta thấy được Thánh Gioan diễn tả các biến cố từng tự kế tiếp nhau dẫn đến thời điểm nẩy sinh đức tin.

 

 

 

Công cuộc được khởi đầu bằng việc bà Maria Magdala buổi sáng đến viếng mộ:

 

 

 

 - " Sáng sớm ngày thứ nhứt trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Magdala đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Bà nói người ta đem Chúa ra khỏi mộ, và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu" ( Jn 20, 1-2).

 

 

 

Trong đoạn tường thuật lại vừa kể, có thể Thánh Gioan dùng mệnh đề chỉ thời gian " sáng sớm ngày thứ nhứt trong tuần " để xác định thời điểm thực sự lúc việc xảy ra.

 

 

 

Nhưng cũng có thể Ngài dùng yếu tố thời gian " sáng sớm ngày thứ nhứt trong tuần, lúc trời còn tối " với ý nghĩa tượng trưng để nói lên Niềm Tin vào Chúa Giêsu của các Môn Đệ còn mờ mịt, sau cái chết của Ngài.

 

 

 

Giả thuyết trên được Thánh Gioan xác nhận rõ ràng hơn khi Ngài xác nhận ở một ít dòng sau đó:

 

 

 

- " Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: theo Thánh Kinh, Chúa Giêsu phải trỗi dậy từ cỏi chết " ( Jn 20, 9 ).

 

 

 

Kế đến trong mệnh đề chính " thì bà thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ " ( Jn 20, 1b) cho chúng ta biết cái nhìn, " thấy " ( blepein ,trong nguyên ngữ Hy Lạp) của bà là cái nhìn chớp nhoáng, thoáng qua.

 

 

 

Với cái nhìn chớp nhoáng vừa kể, cộng thêm cơn hốt hoảng và sự nhạy cảm của người phụ nữ, bà không còn thời giờ để tìm hiểu kỹ lưỡng hơn. Bà chạy về báo cho các Môn Đệ, nhưng thay vì báo những gì " mắt thấy tai nghe ", bà báo những gì bà đã suy diễn:

 

 

 

 - " người ta đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu " ( Jn 20, 2), thay vì thuật lại thực sự những gì bà đã thấy ," thì bà thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ " .

 

 

 

Còn nữa, trong câu báo cáo của bà Maria Magdala với các Môn Đệ, người đọc sẽ lấy làm lạ là Thánh Gioan chỉ kể lại cho chúng ta rằng:

 

 

 

 - " Sáng sớm, ngày thứ nhứt trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Magdala đi đến mộ " , thì tại sao trong câu báo cáo bà lại nói:

 

 

 

- " và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu " .

 

 

 

Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh cho rằng Thánh Gioan chỉ đề cập đến Maria Magdala, vì bà có vai trò quan trọng trong câu chuyện, chớ không phải bà chỉ đi đến viếng mộ một mình.

 

 

 

Điều đó được minh chứng bởi Phúc Âm Thánh Matthêu và Thánh Marco:

 

 

 

 - " Sau ngày sabat, ngày thứ nhứt trong tuần vừa ló dạng, bà Maria Magdala và một bà khác cũng tên là Maria đi viếng mộ " ( Mt 28,1).

 

 

 

 - " Vừa hết ngày sabat, bà Maria Magdala với bà Maria, mẹ ông Giacobê và bà Salome, mua dầu thơm để đi ướp xác Chúa Giêsu. Sáng tinh sương ngày thứ nhứt trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, cả ba ra mộ " ( Mc 16, 1-2).

 

 

 

Trở lại con người bà Maria Magdala, bà sai lầm không những một lần do việc thoáng nhìn (blepein) và trạng thái hốt hoảng được tô đậm thêm bằng tình cảm phụ nữ, khi " thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ " , thì tự cắt nghĩa cho rằng: " người ta đã đem Chúa ra khỏi mộ, và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu " , mà về sau khi chính Chúa Giêsu hiện ra với bà, bà cứ tưởng là người làm vườn ( Jn 20, 15).

 

 

 

Cho đến khi Chúa Giêsu gọi tên, bà mới nhận ra Ngài:

 

 

 

 - " Chúa Giêsu gọi bà: Maria! Bà quay lại và nói bằng tiếng Do Thái: Rabbuni !( nghĩa là lạy Thầy) " ( Jn 20, 16).

 

 

 

 Dầu có nhiều lầm lẫn, Maria Magdala đã có công đánh thức được các Môn Đệ khỏi giấc ngủ mơ màng của đức tin. Thánh Gregorio Cả ( Gregorium Magnum) gọi bà là người nữ Môn Đệ của các Môn Đệ ( Apostola Apostolorum ”).

 

 

 

B - Dù đúng hay sai, câu báo cáo hốt hoảng của bà Maria Magdala được Thánh Phêrô và Thánh Gioan, người Môn Đệ Chúa Giêsu thương mến” tiếp nhận và phản ứng.

 

Cả hai cùng chạy đến mộ:

 

 

 

 - " Ông Phêrô và môn đệ kia liền bỏ nhà chạy ra mộ. Cả hai cùng chạy ".

 

 

 

Trong việc «  cùng chạy ra mộ » đó, dĩ nhiên Thánh Gioan còn trẻ hơn, nhiều sức lực hơn, chạy nhanh hơn và tới mộ trước Thánh Phêrô :

 

 

 

 - « Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước » ( Jn 20, 4b).

 

 

 

Nhưng dù tới trước, Thánh Gioan vẫn nhớ đến địa vị ưu tiên của Thánh Phêrô, cột trụ của Giáo Hội và của đức tin các tín hữu mà Chúa Ki Tô xác nhận và phong tước cho Ngài trước đó:

 

 

 

 - « Còn Thầy, Thầy báo cho anh biết : anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và các quyền lực tử thần sẽ không thắng nỗi » ( Mt 16, 18).

 

 

 

 - « Rồi Chúa Giêsu phán : Nầy Simon, Simon, Satan đã xưng là có quyền sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi anh trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh » (Mc 22, 31-32).

 

 

 

Địa vị cột trụ nền tảng đó của Thánh Phêrô, Thánh Gioan không quên và viết lại để nhắc cho mỗi người chúng ta điều đó qua cử chỉ kính trọng, nhường quyền ưu tiên của Ngài đối với vị Lãnh Đạo Giáo Hội.

 

 

 

Do đó, mặc dầu khoẻ mạnh và mau mắn hơn, tới mộ trước, Thánh Gioan dừng lại bên ngoài, nhường bước cho Thánh Phêrô :

 

 

 

 - « Ông cúi xuống nhìn thấy những băng vải ở đó, nhưng không vào » ( Jn 20, 5).

 

 

 

Thánh Phêrô đến sau, vào trong mộ và quan sát:

 

 

 

 - « Ông Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu của Chúa Giêsu. Khăn nầy không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại xếp riêng ra một nơi »( Jn 20, 6-7 ).

 

 

 

Cử chỉ của Thánh Phêrô trong mộ cho phép chúng ta dùng từ ngữ « quan sát » ( theoreo, nguyên bản Hy Lạp), hơn là « thấy » ( bản dịch Việt Ngữ , Thánh Kinh Trọn Bộ, Nhà Xuất Bản TPHCM 1998, 2039).

 

 

 

Động từ « quan sát » ( theoreo) cho thấy Thánh Phêrô nhìn đi, nhìn lại kỹ lưỡng và cả suy nghĩ, đặt giả thuyết đối với những sự kiện trước mắt :

 

 

 

 - « Ông vào thẳng trong mộ, thấy ( quan sát) những băng vải ở đó, và khăn che đầu Chúa Giêsu. Khăn nầy không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi » (Jn 20,7).

 

 

 

Nhưng rồi cho dù quan sát, tìm hiểu, đặt giả thuyết, Thánh Phêrô cũng chưa thấu triệt được ý nghĩa của những gì mình trông thấy.

 

 

 

Nói cách khác, Thánh Phêrô vẫn chưa hiểu được những gì Thánh Kinh viết về Chúa Giêsu, như Phúc Âm Thánh Gioan đề cập :

 

 

 

 - « Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng : theo Thánh Kinh, Chúa Giêsu phải trỗi dậy từ cỏi chết » ( Jn 20, 9).

 

 

 

C - Và cuối cùng phần kết của đoạn Phúc Âm hôm nay nói lên vai chính nổi bật của Thánh Gioan,  « người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến », người môn đệ « trong số các môn đệ, có một người được Chúa Giêsu thương mến, ông đang dùng bửa, tựa đầu vào Chúa Giêsu » ( Jn 13, 23).

 

 

 

Với một cái nhìn trực giác, được trợ lực bằng cuộc sống thân tình với Chúa Giêsu, quen với các động tác, cách hành xử của Người, Thánh Gioan bước vào mộ sau Thánh Phêrô, thoáng nhìn ( blepein), « người môn đệ Chúa Giêsu thương mến » hiểu ngay những gì trước mắt là những tín hiệu Chúa Giêsu để lại, báo cho biết.

 

 

 

Chỉ bằng một đoạn văn đơn sơ và ngắn ngủi, không cần cắt nghĩa, Thánh Gioan loan báo Tin Mừng Phục Sinh vừa nhận được :

 

 

 

 - « Ông đã thấy và tin » ( Jn 20, 8b).

 

 

 

Qua cuộc sống thân tình với Chúa Giêsu, Thánh Gioan « hiểu ngay » qua các động tác của việc

 

 

 

« các băng vải ở đó, và khăn che đầu Chúa Giêsu. Khăn nầy không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi » ( Jn 20,7).

 

 

 

Đức tin là ân sủng của Chúa ban cho, nhưng đức tin phải được đón nhận bằng tâm hồn của

 

 

 

« người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến, ông đang dùng bửa, tựa đầu vào Chúa Giêsu » ( Jn 13, 23).

 

 

 

D - Thánh Gioan đã kính nhường uy thế ưu tiên của Thánh Phêrô, nhưng chắc chắn Thánh Phêrô cũng phải xác nhận tia sáng ân sủng đức tin được chiếu dọi cho Thánh Gioan, điều mà Ngài quan sát, tìm hiểu, đặt giả thuyết cũng không hiểu nỗi.

 

 

 

Trong Giáo Hội, Chúa ban ân sủng cho nhiều thành phần, để mỗi người một chức năng, nhiệm vụ, cộng tác, bổ túc nhau quy hướng phục vụ Cộng Đồng Dân Chúa, như Thánh Phaolồ đã xác nhận :

 

 

 

 - « Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều chức vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa.Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người…Nhưng chính Thánh Thần duy nhứt làm tất cả những điều đó, và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của Người » ( 1 Cor 12, 4.5.11).

 

 

 

Điều đó cho chúng ta nhìn thấy uy quyền đặc trách nhiệm vụ trong Giáo Hội và ân sủng được Chúa ban cho bổ túc lẫn nhau để phục vụ lợi ích cho Cộng Đồng Dân Chúa.

 

 

 

E - Câu loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Thánh Gioan, «  Ông đã thấy và tin »( Jn 20, 8b) là câu kết thúc tột đỉnh tiến trình hướng đến đức tin của đoạn Phúc Âm Thánh Lễ hôm nay.

 

 

 

Tiến trình trên được khởi điểm bằng cách giải thích không chính xác của Maria Magdala :

 

 

 

 - « Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng ta không biết họ để Người ở đâu » (Jn 20, 3).

 

 

 

Kế đến một cái nhìn thoáng qua từ bên ngoài của người môn đệ Chúa Giêsu thương mến :

 

 

 

 - « Ông cuối xuống nhìn thấy ( blepein) những băng vải còn ở đó, nhưng không vào » ( Jn 20, 5).

 

 

 

Và rồi một tiến trình quan sát kỷ lưỡng, tìm hiểu đặt giả thuyết ( theoreo) của Thánh Phêrô, nhưng vẫn chưa hiểu được đức tin.

 

 

 

Cuối cùng chỉ có «  người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến », sống thân tình với Người, được Thiên Chúa mạc khải như một ánh chớp giữa bầu trời đen tối, chiếu rực rỡ tâm hồn sẳn sàng đón tiếp Người. Chúa Giêsu và Thánh Gioan hiểu nhau :

 

 

 

 - « Bây giờ , môn đệ kia, kẻ đã tới trước cũng vào. Ông đã thấy và tin » ( Jn 20, 8).

 

 

 

Tuy Thánh Gioan đã nhận được Niềm Tin Phục Sinh, đức tin thực sự đã nẩy sinh, nhưng còn quá sớm để có thể triển nở đầy đủ, do đó Ngài đã kết luận đoạn tường thuật:

 

 

 

 - « Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng : theo Thánh Kinh, Chúa Giêsu phải trỗi dậy từ cỏi chết » ( Jn 20, 9).

 

 

 

Từ lúc đó, Thánh Phêrô và Thánh Gioan bắt đầu đi vào Thánh Kinh để thấu hiểu và triển nở thêm đức tin của mình, để đến một ngày nào đó, các Ngài cũng có thể tuyên bố như Maria Magdala tuyên bố cho mọi người :

 

 

 

 - « Bà Maria Magdala đi báo cho các môn đệ : Tôi đã thấy Chúa, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà » ( Jn 20, 18).

 

 

 

Đức tin của Thánh Gioan và của cả Thánh Phêrô vừa chớm nở, chưa đủ sức để thúc đẩy các Ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Chúa Giêsu Phục Sinh cho mọi người. Do đó Thánh Gioan kết thúc đoạn Phúc Âm bằng một câu nói rất có ý nghĩa :

 

 

 

 - « Sau đó các môn đệ ( Phêrô và Gioan) lại trở về nhà » ( Jn 20, 10), thay vì ra đi rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho mọi người !

 

 

 

F - Đoạn Phúc Âm hôm nay về tiến trình nẩy sinh và triển nở Niềm Tin Phục Sinh cho chúng ta cơ hội để tự vấn lương tâm về đức tin của chúng ta.

 

 

 

Đức tin của chúng ta đã nẩy sinh với Phép Rửa, hiện đang ở trong giai đoạn nào ?

 

 

 

Vẫn còn ở trong tình trạng vừa mới nẩy sinh của Thánh Gioan và Thánh Phêrô trong đoạn Phúc Âm hôm nay, hay đã trưởng thành, lớn mạnh và chúng ta sẵn sàng đem Tin Mừng Chúa Giêsu Phục Sinh đến cho mọi người ?

 

 

 

Hay đức tin của chúng ta đã nẩy sinh, nhưng đã bị khô héo, đồng lõa với sợ hải, lợi thú, quyền lực, không dám nói lên tiếng nói của Chúa Giêsu bênh vực kẻ bé mọn, bị đàn áp, nhân phẩm bị chà đạp và đê tiện hóa, hành xử như những gì Chúa Giêsu dạy chúng ta trong Tám Mối Phước Thật ?

 

 

 

Một lý do để chúng ta tự xét mình hơn nữa trước mặt Chúa, đó là từ trên mười mấy năm nay, ngày 28 tháng giêng 2001, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II đã gởi đến tất cả chúng ta một Huấn Dụ, qua tay 28 vị Giám Mục và hai Cha Giám Quản khi các Ngài đến viếng Tông Toà ở Roma để khuyến khích chúng ta hãy hành động theo lương tâm ngay chính và đức tin, chúng ta đã thực hiện được những gì. Và đây là lời của Đức Thánh Cha:

 

 

 

- « Khi qúy Vị trở về đất nước cao qúy của qúy Vị, xin qúy Vị hãy nói với các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các thầy giảng, giáo dân và đặc biệt là giới trẻ, rằng Đức Thánh Cha cầu nguyện cho họ và khuyến khích họ hãy lãnh nhận những thách đố mà Phúc Âm đem lại, bằng cách noi gương các Thánh và các vị Tử Đạo đi trước trên con đường Đức Tin. Máu các vị đã đổ ra là hạt giống của cuộc sống mới cho đất nước » ( Huấn Dụ ĐTC Gioan Phaolồ II gởi HDGMVN, đoạn 1).

 

 

 

- « Tình yêu Chúa Ki Tô thúc đẩy Giáo Hội phúc âm hóa và thúc đẩy các Giám Mục phúc âm hóa, bổn phận và trách nhiệm đầu tiên của qúy vị. Giáo Hội Việt Nam được mời gọi hãy ra khơi, dành ưu tiên lớn cho việc truyền bá Phúc Âm và cho sứ mạng trong các chương trình hoạt động của qúy vị » ( Đoạn 2, id.).

 

 

 

Chúng ta đã « ra khơi » để đem Phúc Âm, Công Lý và Hoà Bình cho dân tộc chúng ta được bao xa rồi, hay chúng ta đang còn bị rướn lên các mỏm đá và đang bị mắc cạn ?

 

Hỏi để chúng ta, mọi người tùy theo chức năng và khả năng, trả lời trước mặt Chúa trong Niềm Tin Chúa Phục Sinh.

 

Tác giả: Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!