SUY NIỆM PHÚC ÂM ( IV C 21 ); ( 31.03.2013); ( Jn 20,
1-9).
CHÚA NHẬT LỄ PHỤC SINH, NĂM C
NGUYỄN HỌC TẬP
Thánh Gioan viết các đoạn Phúc Âm tường thuật lại biến cố
Chúa Giêsu sống lại rất súc tích có nhiều mục đích khác nhau:
- a ) Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chết trên thập giá là
chính Chúa Giêsu đang sống, hiện diện và năng động trong Giáo Hội của Người,
như Thánh Marco trong câu kết thúc Phúc Âm của Ngài, kể lại ngày Chúa Giêsu từ
giã các Môn Đệ để về cùng Chúa Cha:
- " Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự
bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa hoạt
động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng" ( Mc 16, 19-20).
- b ) Cái chết của Chúa Giêsu không phải là một sự thất
bại và bất lực của Thiên Chúa, mà là một biến cố mạc khải cực điểm tình yêu của
Người đối với nhân loại.
- c ) Trình bày cho chúng ta thế nào là diễn tiến
nẩy sinh và triển nở Niềm Tin Phục
Sinh nơi các Môn Đệ.
Trong bài Suy Niệm Phúc Âm hôm nay, chúng ta giới hạn vào
mục đích cuối cùng vừa kể để tìm hiểu sứ điệp Thánh Gioan muốn gởi đến chúng
ta.
Dĩ nhiên viết Phúc Âm với mục đích vừa kể, trình bày tiến
trình nẩy sinh và lớn mạnh lên của Niềm Tin Phục Sinh nơi các tín hữu Chúa Ki
Tô, nơi các Môn Đệ trước tiên và nơi chúng ta, con cái của các Ngài trong đức tin kế đến, Thánh Gioan không
có ý tường thuật lại cho chúng ta chính xác và gồm đủ mọi chi tiết của các biến
cố xảy ra trong ngày Chúa Giêsu Phục Sinh, cho bằng nói lên cho chúng ta ý
nghĩa mầu nhiệm của Chúa Phục Sinh, tiến trình nhận ra ý nghĩa đó và việc đón
nhận mầu nhiệm Chúa Phục Sinh vào đức tin.
A - Đoạn Phúc Âm hôm nay giới thiệu cho chúng ta việc nẩy
sinh và triển nở Niềm Tin Chúa Giêsu Phục Sinh nơi " người môn đệ được
Chúa Giêsu thương mến" ( Jn 20, 2).
Đoạn Phúc Âm vừa được đề cập, là một trong bốn đoạn tường
thuật lại diễn tiến biến cố Chúa Phục Sinh đối với các Môn Đệ và những người
thân tín của Người:
- Bà Maria Magdala đến viếng mộ ( Jn 20, 1-3).
- Hai Môn Đệ
Simon Phêrô và Gioan chạy đến mộ ( Jn 20, 3-9),
- Chúa Giêsu
hiện ra cho ba Maria Madgala ( Jn 20, 11-18)
- Chúa Giêsu
hiện ra cho các Môn Đệ bửa tối, nơi các Ngài cư ngụ và Thánh Tôma cứng lòng tin ( Jn 20, 19-29).
Tất cả bốn đoạn Phúc Âm vừa kể từng tự, chuẩn bị đồng quy để đưa đến câu kết cuối
cùng của chương Phúc Âm nói về ngày Phục Sinh:
- " Phúc thay cho những người không thấy mà tin " ( Jn 20, 29).
Theo dỏi diễn biến hai đoạn đầu tiên của đoạn Phúc Âm
trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta thấy được Thánh Gioan diễn tả các biến cố từng
tự kế tiếp nhau dẫn đến thời điểm nẩy sinh đức tin.
Công cuộc được khởi đầu bằng việc bà Maria Magdala
buổi sáng đến viếng mộ:
- "
Sáng sớm ngày thứ nhứt trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Magdala đi đến
mộ, thì thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ. Bà
liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Bà nói
người ta đem Chúa ra khỏi mộ, và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu" (
Jn 20, 1-2).
Trong đoạn tường thuật lại vừa kể, có thể Thánh Gioan
dùng mệnh đề chỉ thời gian " sáng sớm ngày thứ nhứt trong tuần " để xác định thời điểm thực sự lúc việc xảy
ra.
Nhưng cũng có thể Ngài dùng yếu tố thời gian "
sáng sớm ngày thứ nhứt trong tuần, lúc trời còn tối " với ý nghĩa tượng trưng để nói lên Niềm Tin
vào Chúa Giêsu của các Môn Đệ còn mờ
mịt, sau cái chết của Ngài.
Giả thuyết trên được Thánh Gioan xác nhận rõ ràng hơn
khi Ngài xác nhận ở một ít dòng sau đó:
- " Thật
vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: theo Thánh Kinh, Chúa Giêsu phải trỗi dậy từ cỏi chết " ( Jn 20, 9
).
Kế đến trong mệnh đề chính " thì bà thấy tảng
đá lăn ra khỏi mộ " ( Jn 20, 1b) cho chúng ta biết cái nhìn, "
thấy " ( blepein ,trong nguyên ngữ Hy Lạp) của bà là cái nhìn chớp nhoáng, thoáng qua.
Với cái nhìn chớp nhoáng vừa kể, cộng thêm cơn hốt
hoảng và sự nhạy cảm của người phụ nữ, bà không còn thời giờ để tìm hiểu kỹ
lưỡng hơn. Bà chạy về báo cho các Môn Đệ, nhưng thay vì báo những gì " mắt
thấy tai nghe ", bà báo những gì bà đã suy diễn:
- "
người ta đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu " ( Jn 20, 2), thay vì thuật lại
thực sự những gì bà đã thấy ," thì
bà thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ " .
Còn nữa, trong câu báo cáo của bà Maria Magdala với
các Môn Đệ, người đọc sẽ lấy làm lạ là Thánh Gioan chỉ kể lại cho chúng ta
rằng:
- " Sáng sớm, ngày thứ nhứt trong tuần, lúc trời
còn tối, bà Maria Magdala đi đến mộ " , thì tại sao trong câu báo cáo
bà lại nói:
- " và
chúng tôi không biết họ để Người ở đâu " .
Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh cho rằng Thánh Gioan chỉ
đề cập đến Maria Magdala, vì bà có vai trò quan trọng trong câu chuyện, chớ
không phải bà chỉ đi đến viếng mộ một mình.
Điều đó được minh chứng bởi Phúc Âm Thánh Matthêu và
Thánh Marco:
- " Sau ngày sabat, ngày thứ nhứt trong tuần
vừa ló dạng, bà Maria Magdala và một bà khác cũng tên là Maria đi viếng mộ
" ( Mt 28,1).
- " Vừa
hết ngày sabat, bà Maria Magdala với bà Maria, mẹ ông Giacobê và bà Salome, mua
dầu thơm để đi ướp xác Chúa Giêsu. Sáng tinh sương ngày thứ nhứt trong tuần,
lúc mặt trời hé mọc, cả ba ra mộ " ( Mc 16, 1-2).
Trở lại con người bà Maria Magdala, bà sai lầm không
những một lần do việc thoáng nhìn (blepein) và trạng thái hốt hoảng được
tô đậm thêm bằng tình cảm phụ nữ, khi " thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ "
, thì tự cắt nghĩa cho rằng: " người
ta đã đem Chúa ra khỏi mộ, và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu " ,
mà về sau khi chính Chúa Giêsu hiện ra với bà, bà cứ tưởng là người làm vườn
( Jn 20, 15).
Cho đến khi Chúa Giêsu gọi tên, bà mới nhận ra Ngài:
- " Chúa
Giêsu gọi bà: Maria! Bà quay lại và nói bằng tiếng Do Thái: Rabbuni !( nghĩa là
lạy Thầy) " ( Jn 20, 16).
Dầu có nhiều
lầm lẫn, Maria Magdala đã có công đánh thức được các Môn Đệ khỏi giấc ngủ mơ
màng của đức tin. Thánh Gregorio Cả ( Gregorium Magnum) gọi bà là người nữ
Môn Đệ của các Môn Đệ ( Apostola
Apostolorum ).
B - Dù đúng hay sai, câu báo cáo hốt hoảng của bà
Maria Magdala được Thánh Phêrô và Thánh Gioan, người Môn Đệ Chúa Giêsu thương
mến tiếp nhận và phản ứng.
Cả hai cùng chạy đến mộ:
- " Ông
Phêrô và môn đệ kia liền bỏ nhà chạy ra mộ. Cả hai cùng chạy ".
Trong việc « cùng chạy ra mộ » đó, dĩ nhiên Thánh Gioan
còn trẻ hơn, nhiều sức lực hơn, chạy nhanh hơn và tới mộ trước Thánh Phêrô :
- « Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã
tới mộ trước » ( Jn 20, 4b).
Nhưng dù tới trước, Thánh Gioan vẫn nhớ đến địa vị ưu
tiên của Thánh Phêrô, cột trụ của Giáo Hội và của đức tin các tín hữu mà Chúa
Ki Tô xác nhận và phong tước cho Ngài
trước đó:
- « Còn Thầy, Thầy báo cho anh biết : anh là
Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và
các quyền lực tử thần sẽ không thắng nỗi » ( Mt 16, 18).
- « Rồi Chúa Giêsu phán : Nầy Simon, Simon,
Satan đã xưng là có quyền sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu
nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi anh trở lại, hãy
làm cho anh em của anh nên vững mạnh » (Mc 22, 31-32).
Địa vị cột trụ nền tảng đó của Thánh Phêrô, Thánh
Gioan không quên và viết lại để nhắc cho mỗi người chúng ta điều đó qua cử
chỉ kính trọng, nhường quyền ưu tiên của
Ngài đối với vị Lãnh Đạo Giáo Hội.
Do đó, mặc dầu khoẻ mạnh và mau mắn hơn, tới mộ trước,
Thánh Gioan dừng lại bên ngoài, nhường bước cho Thánh Phêrô :
- « Ông cúi xuống nhìn thấy những băng vải ở đó,
nhưng không vào » ( Jn 20, 5).
Thánh Phêrô đến sau, vào trong mộ và quan sát:
- « Ông Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông
vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu của Chúa
Giêsu. Khăn nầy không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại xếp riêng ra một
nơi »( Jn 20, 6-7 ).
Cử chỉ của Thánh Phêrô trong mộ cho phép chúng ta dùng
từ ngữ « quan sát » ( theoreo, nguyên
bản Hy Lạp), hơn là « thấy » (
bản dịch Việt Ngữ , Thánh Kinh Trọn Bộ, Nhà Xuất Bản TPHCM 1998, 2039).
Động từ « quan sát » ( theoreo) cho thấy Thánh
Phêrô nhìn đi, nhìn lại kỹ lưỡng và cả suy nghĩ, đặt giả thuyết đối với những sự kiện trước mắt :
- « Ông vào thẳng trong mộ, thấy ( quan sát)
những băng vải ở đó, và khăn che đầu Chúa Giêsu. Khăn nầy không để lẫn với các
băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi » (Jn 20,7).
Nhưng rồi cho dù quan sát, tìm hiểu, đặt giả thuyết,
Thánh Phêrô cũng chưa thấu triệt được ý nghĩa của những gì mình trông thấy.
Nói cách khác, Thánh Phêrô vẫn chưa hiểu được những gì
Thánh Kinh viết về Chúa Giêsu, như Phúc Âm Thánh Gioan đề cập :
- « Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng
: theo Thánh Kinh, Chúa Giêsu phải trỗi dậy từ cỏi chết » ( Jn 20, 9).
C - Và cuối cùng phần kết của đoạn Phúc Âm hôm nay nói
lên vai chính nổi bật của Thánh Gioan, « người môn đệ được Chúa Giêsu
thương mến », người môn đệ « trong
số các môn đệ, có một người được Chúa Giêsu thương mến, ông đang dùng bửa, tựa
đầu vào Chúa Giêsu » ( Jn 13, 23).
Với một cái nhìn trực giác, được trợ lực bằng cuộc
sống thân tình với Chúa Giêsu, quen với các động tác, cách hành xử của Người,
Thánh Gioan bước vào mộ sau Thánh Phêrô, thoáng nhìn ( blepein), « người môn đệ Chúa Giêsu thương mến »
hiểu ngay những gì trước mắt là những tín hiệu Chúa Giêsu để lại, báo cho biết.
Chỉ bằng một đoạn văn đơn sơ và ngắn ngủi, không cần
cắt nghĩa, Thánh Gioan loan báo Tin Mừng Phục Sinh vừa nhận được :
- « Ông đã thấy và tin » ( Jn 20, 8b).
Qua cuộc sống thân tình với Chúa Giêsu, Thánh Gioan « hiểu ngay » qua các động tác của việc
« các băng
vải ở đó, và khăn che đầu Chúa Giêsu. Khăn nầy không để lẫn với các băng vải,
nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi » ( Jn 20,7).
Đức tin là ân sủng của Chúa ban cho, nhưng đức tin
phải được đón nhận bằng tâm hồn của
« người môn
đệ được Chúa Giêsu thương mến, ông đang dùng bửa, tựa đầu vào Chúa Giêsu » ( Jn
13, 23).
D - Thánh Gioan đã kính nhường uy thế ưu tiên của
Thánh Phêrô, nhưng chắc chắn Thánh Phêrô cũng phải xác nhận tia sáng ân sủng
đức tin được chiếu dọi cho Thánh Gioan, điều mà Ngài quan sát, tìm hiểu, đặt
giả thuyết cũng không hiểu nỗi.
Trong Giáo Hội, Chúa ban ân sủng cho nhiều thành phần,
để mỗi người một chức năng, nhiệm vụ, cộng tác, bổ túc nhau quy hướng phục vụ Cộng Đồng Dân Chúa, như Thánh
Phaolồ đã xác nhận :
- « Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có
một Thánh Thần. Có nhiều chức vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa.Có
nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi
người
Nhưng chính Thánh Thần duy nhứt làm tất cả những điều đó, và phân chia
cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của Người » ( 1 Cor 12, 4.5.11).
Điều đó cho chúng ta nhìn thấy uy quyền đặc trách
nhiệm vụ trong Giáo Hội và ân sủng được Chúa ban cho bổ túc lẫn nhau để phục vụ
lợi ích cho Cộng Đồng Dân Chúa.
E - Câu loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Thánh Gioan, «
Ông đã thấy và tin »( Jn 20, 8b)
là câu kết thúc tột đỉnh tiến trình hướng đến đức tin của đoạn Phúc Âm Thánh Lễ
hôm nay.
Tiến trình trên được khởi điểm bằng cách giải thích
không chính xác của Maria Magdala :
- « Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng ta
không biết họ để Người ở đâu » (Jn 20, 3).
Kế đến một cái nhìn thoáng qua từ bên ngoài của người
môn đệ Chúa Giêsu thương mến :
- « Ông cuối xuống nhìn thấy ( blepein) những
băng vải còn ở đó, nhưng không vào » ( Jn 20, 5).
Và rồi một tiến trình quan sát kỷ lưỡng, tìm hiểu đặt
giả thuyết ( theoreo) của Thánh Phêrô,
nhưng vẫn chưa hiểu được đức tin.
Cuối cùng chỉ có « người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến »,
sống thân tình với Người, được Thiên Chúa mạc khải như một ánh chớp giữa bầu
trời đen tối, chiếu rực rỡ tâm hồn sẳn sàng đón tiếp Người. Chúa Giêsu và Thánh
Gioan hiểu nhau :
- « Bây giờ , môn đệ kia, kẻ đã tới trước cũng
vào. Ông đã thấy và tin » ( Jn 20, 8).
Tuy Thánh Gioan đã nhận được Niềm Tin Phục Sinh, đức
tin thực sự đã nẩy sinh, nhưng còn quá sớm để có thể triển nở đầy đủ, do đó
Ngài đã kết luận đoạn tường thuật:
- « Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng
: theo Thánh Kinh, Chúa Giêsu phải trỗi dậy từ cỏi chết » ( Jn 20, 9).
Từ lúc đó, Thánh Phêrô và Thánh Gioan bắt đầu đi vào
Thánh Kinh để thấu hiểu và triển nở thêm đức tin của mình, để đến một ngày nào
đó, các Ngài cũng có thể tuyên bố như Maria Magdala tuyên bố cho mọi người :
- « Bà Maria Magdala đi báo cho các môn đệ : Tôi
đã thấy Chúa, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà » ( Jn 20, 18).
Đức tin của Thánh Gioan và của cả Thánh Phêrô vừa chớm
nở, chưa đủ sức để thúc đẩy các Ngài mở
tung cửa ra đi rao giảng Chúa Giêsu Phục Sinh cho mọi người. Do đó Thánh Gioan
kết thúc đoạn Phúc Âm bằng một câu nói rất có ý nghĩa :
- « Sau đó các môn đệ ( Phêrô và Gioan) lại trở
về nhà » ( Jn 20, 10), thay vì ra đi rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho
mọi người !
F - Đoạn Phúc Âm hôm nay về tiến trình nẩy sinh và
triển nở Niềm Tin Phục Sinh cho chúng ta cơ hội để tự vấn lương tâm về đức tin
của chúng ta.
Đức tin của chúng ta đã nẩy sinh với Phép Rửa, hiện
đang ở trong giai đoạn nào ?
Vẫn còn ở trong tình trạng vừa mới nẩy sinh của Thánh Gioan và Thánh Phêrô trong đoạn
Phúc Âm hôm nay, hay đã trưởng thành, lớn mạnh và chúng ta sẵn sàng đem Tin
Mừng Chúa Giêsu Phục Sinh đến cho mọi người ?
Hay đức tin của chúng ta đã nẩy sinh, nhưng đã bị khô
héo, đồng lõa với sợ hải, lợi thú, quyền lực, không dám nói lên tiếng nói của
Chúa Giêsu bênh vực kẻ bé mọn, bị đàn áp, nhân phẩm bị chà đạp và đê tiện hóa,
hành xử như những gì Chúa Giêsu dạy chúng ta trong Tám Mối Phước Thật ?
Một lý do để chúng ta tự xét mình hơn nữa trước mặt
Chúa, đó là từ trên mười mấy năm nay, ngày 28 tháng giêng 2001, Đức Thánh Cha
Gioan Phaolồ II đã gởi đến tất cả chúng ta một Huấn Dụ, qua tay 28 vị Giám Mục
và hai Cha Giám Quản khi các Ngài đến viếng Tông Toà ở Roma để khuyến khích
chúng ta hãy hành động theo lương tâm ngay chính và đức tin, chúng ta đã thực
hiện được những gì. Và đây là lời của Đức Thánh Cha:
- « Khi qúy
Vị trở về đất nước cao qúy của qúy Vị, xin qúy Vị hãy nói với các linh mục, các
tu sĩ nam nữ, các thầy giảng, giáo dân và đặc biệt là giới trẻ, rằng Đức Thánh
Cha cầu nguyện cho họ và khuyến khích họ hãy lãnh nhận những thách đố mà Phúc
Âm đem lại, bằng cách noi gương các Thánh và các vị Tử Đạo đi trước trên con đường Đức Tin. Máu
các vị đã đổ ra là hạt giống của cuộc sống mới cho đất nước » ( Huấn Dụ ĐTC
Gioan Phaolồ II gởi HDGMVN, đoạn 1).
- « Tình yêu
Chúa Ki Tô thúc đẩy Giáo Hội phúc âm hóa và thúc đẩy các Giám Mục phúc âm hóa,
bổn phận và trách nhiệm đầu tiên của qúy vị. Giáo Hội Việt Nam được mời gọi hãy
ra khơi, dành ưu tiên lớn cho việc truyền bá Phúc Âm và cho sứ mạng trong các
chương trình hoạt động của qúy vị » (
Đoạn 2, id.).
Chúng ta đã « ra khơi » để đem Phúc Âm, Công Lý và Hoà Bình cho dân tộc chúng ta
được bao xa rồi, hay chúng ta đang còn bị rướn lên các mỏm đá và đang bị mắc
cạn ?
Hỏi để chúng ta, mọi người tùy theo chức năng và khả
năng, trả lời trước mặt Chúa trong Niềm Tin Chúa Phục Sinh.