SUY
NIỆM PHÚC ÂM ( IV C 19 ); ( 17.03.2013); ( Jn 8, 1-11)
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY, NĂM C
NGUYỄN HỌC TẬP
Khi
đọc đến phần cuối của đoạn Phúc Âm về Người thiếu phụ ngoại tình hôm nay,
Nghe vậy họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau,
bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và người phụ
nữ đứng giữa ( Jn 8, 9),
Thánh
Augustino đã viết một câu suy ngẫm thấm thía: " Chỉ còn lại có hai thực thể, tội lỗi bất hạnh của con người (
người thiếu phụ tội lỗi ) và lòng nhân từ tha thứ của Thiên Chúa ( Chúa
Giêsu)" .
Trước
mặt Thiên Chúa, con người tỗi lỗi, thấp hèn, bất hạnh, cần nhờ lòng đại lượng
nhân từ tha thứ của Thiên Chúa.
A
- Trong quá khứ, đọc câu chuyện " Người thiếu phụ ngoại tình "
trong Phúc Âm hôm nay, nhiều lần chúng ta thích thú, ít nhứt là đối với người
đang viết những dòng nầy, trước câu nói
của Chúa Giêsu:
- " Ai trong các ông sạch tội thì lấy
đá mà ném trước đi ! Nghe vậy họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ
những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và người thiếu phụ đứng
giữa " ( Jn 8, 7b.9).
Chúng
ta thích thú vì cho rằng Chúa Giêsu, với câu nói của Ngài, đã " lột mặt
nạ " được các kinh sư và người Pharisêu, là những thành phần giả hình,
không biết thương yêu người khác. Họ là những thành phần nhiều lần bị Chúa Giêsu khiển trách ( Mt 23, 1-36) .
Đồng
thời Chúa Giêsu đứng ra bênh vực người
thiếu phụ tội lỗi, như Ngài đã tuyên bố, khi kêu gọi ông Matthêu trở thành Môn
Đệ:
- " Vì Ta không đến để kêu gọi người
công chính, mà để kêu gọi kẻ tội lỗi " ( Mt 9, 13).
Điều
suy nghĩ trên có lý, nhưng là lối chú giải hạn hẹp.
Đoạn
Phúc Âm hôm nay về " Người thiếu phụ ngoại tình " hàm chứa súc
tích hơn những gì chúng ta vừa suy nghĩ.
Trước
hết Phúc Âm thuật lại cho chúng ta là khi họ dẫn người thiếu phụ đến và tố cáo
nàng trước mặt Chúa Giêsu, mục đích của họ không phải là kết án nàng, cho bằng tìm
những sơ hở của Chúa Giêsu để tố cáo kết án và loại trừ Ngài:
- " Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người " ( Jn 8,
6a).
Do
đó, câu nói của Chúa Giêsu có bênh vực
người thiếu phụ tội lỗi, nhưng đó không phải là mục đích chính của Ngài ở đây.
Và
nếu mục đích chính không phải là để bênh vực người thiếu phụ, cũng không phải chỉ " lột mặt nạ " thành phần giả hình, như một đôi khi chúng ta
nghĩ đến, thì câu Phúc Âm còn có ý nghĩa sâu xa hơn.
Trở
lại dụng ý " thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người " của các
kinh sư và Pharisêu, chúng ta thấy rằng:
- nếu Chúa Giêsu vì lòng nhân từ tuyên bố
tha bổng cho người thiếu phụ tội lỗi, chính Ngài tự đặt mình trong vị thế lỗi
luật Moisen và có thể bị kết án,
- trái lại, nếu Chúa Giêsu cứ " kéo
thẳng mực tàu " lên án không thương xót, thì Ngài là kẻ " nói
một đàng, làm một nẻo", dạy giáo lý nhẫn nại, đại lượng, thương xót
của Thiên Chúa, nhưng lại thẳng tay kết án tử hình không chút thương tình. Bởi
lẽ lời nói của Ngài, là một bản án tử hình, mà các kinh sư và người Pharisêu
đang đợi để hành quyết:
- " Thưa Thầy, người đàn bà nầy bị bắt
quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Moisen truyền cho chúng tôi phải
ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" ( Jn 8, 4-5).
Chiếc
bẫy các kinh sư và người Pharisêu giăng hôm nay để bắt và tố cáo Chúa Giêsu
cũng tương tợ như chiếc bẫy họ đã giăng ở một lần khác về việc có nên hay
không nên nộp thuế cho Cesare ( Mc 12, 13-17).
Phúc
Âm thuật lại cho chúng ta câu chuyện không được kết thúc một cách mau chóng.
Chúa Giêsu thinh lặng không trả lời và những kẻ tố cáo chắc chắn lập đi lập lại
bản án. Do đó đoạn Phúc Âm được viết bằng cách dùng động từ ở thể thì bán khứ ( temps imparfait), để chỉ động tác kéo dài và lập đi lập lại trong khoảng thời gian,
theo nguyên bản Aramaico cũng như bản
Pháp văn chúng tôi có trong tay:
- " Họ nói với Người: Thưa Thầy, người
đàn bà nầy bị bắt quả tang. Họ nói thế nhằm thử Người, Vì họ cứ nói mãi... " ( Jn 8,
6-7): Ils disaient à Jésus: Mai^tre, cette femme a été surprise en flagrant
délit d'adultère.Il disaient cela pour Lui tendre un piège. Come ils
insistaient.. ( La Sainte Bible, L'Éùcole Biblique de Jérusalem, Cerf, Paris,
1961, 1409).
Có lẽ câu chuyện không kết thúc mau chóng, vì Chúa
Giêsu không trả lời ngay cho những kẻ tố cáo người thiếu phụ. Ngài cuối xuống
đất và viết :
- « Nhưng Chúa Giêsu cuối xuống, lấy ngón tay,
viết trên đất » ( Jn 8, 6b).
Chúa Giêsu viết những gì ?
Phúc Âm không thuật lại cho chúng ta biết.
Nhưng hiểu được giáo lý nhân ái của Chúa Giêsu và
những gì Ngài sẽ nói với họ ở phần cuối của đoạn Phúc Âm, cũng như tình
trạng căng thẳng quyết định lúc đó, chúng ta có thể đoán được là Ngài viết cho
họ , có thể là một đoạn của sách tiên tri Gêrêmia : một vài chỉ dẫn
trong giai đoạn Xuất Hành ra khỏi Ai
Cập:
- « Lạy Đức Chúa, niềm hy vọng của Israel là
Ngài, hết những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải xấu hỗ, những kẻ quay lưng lại với Ngài
sẽ phải đói khát, vì họ đã lìa bỏ Đức Chúa là mạch nước trường sinh » ( Jer 17,
13).
Và trước đó một vài câu, tiên tri Gêrêmia nhấn mạnh :
- « Tội của Giuđa phải được ghi bằng bút sắt
và khắc bằng mũi kim cương vào tâm hồn và vào những góc bàn thờ của chúng » (
Jer 17, 1).
Mệnh lệnh đó của tiên tri Gêrêmia, có thể được Chúa
Giêsu diễn tả bằng những chữ viết của Ngài trên mặt đất cho các kinh sư và
người Pharisêu là những người thông thạo Thánh Kinh, với đại ý của mệnh lệnh là : dân tộc Israel,
không trừ ai, kể cả những kẻ đang đứng trước mặt Chúa Giêsu lúc đó, đều phải
biết mình sẽ là đối tượng phán xét của Thiên Chúa, phải biết nhận lỗi lầm
của mình, khiêm nhường, thống hối và nhận biết lòng nhân từ tha thứ của Thiên
Chúa.
Có lẽ bằng chữ viết trên đất vừa kể, Chúa Giêsu cũng
đã nói lên được sứ điệp Ngài muốn nói với họ, ít nhứt là cho một số người đã hiểu ý, vì họ là những người
thông thạo Thánh Kinh.
Nhưng chắc cũng có một số người khác chưa hiểu, nên họ
lập đi lập lại câu hỏi để thúc bách Ngài:
- « Nhưng vì họ cứ nói mãi, nên Người ngẩng lên
và bảo họ » ( Jn 8, 7).
Và câu nói của Chúa Giêsu, hiểu như văn mạch những chỉ
dẫn của Thánh Kinh trong giai đoạn Xuất Hành vừa kể, không có gì khác hơn là
cách diễn tả lại bằng lời nói rỏ ràng hơn sứ điệp Ngài đã bảo họ bằng chữ viết
:
- « Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá
ném trước đi » ( Jn 8, 7b ).
Và như chúng ta đã đề cập, sứ điệp của giai đoạn Xuất
Hành có nội dung cho biết tình trạng bất trung, lỗi lầm của dân Do Thái, tất cả
mọi người không trừ ai, mọi người cần
thống hối và nhận biết lòng nhân từ tha thứ của Thiên Chúa.
Từ đó chúng ta hiểu được tại sao khi nghe câu nói vừa
kể của Chúa Giêsu, lần lần họ rút lui :
- « Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau,
bắt đầu từ những người lớn tuổi » ( Jn 8, 9).
Bởi lẽ ai cũng là người tội lỗi, bất xứng trước mặt
Thiên Chúa, cần được lòng nhân từ tha thứ của Ngài.
Hay chỉ còn lại hai thực thể : « tội lỗi bất hạnh
và lòng nhân từ tha thứ của Thiên Chúa », nói như Thánh Augustino.
Như vậy, họ rút lui, từ bỏ việc tố giác người thiếu
phụ tội lỗi hay đúng hơn là từ bỏ ý hướng bất chính nhằm gài bẩy để tố giác
Chúa Giêsu, không phải chỉ là dấu hiệu bấn loạn bên ngoài, nhưng là dấu chỉ bên
ngoài những gì đang thay đổi ở nội tâm, nhờ cử chỉ và lời kêu gọi xét mình
thống hối của Chúa Giêsu.
Do đó câu trả lời của Chúa Giêsu trong câu chuyện hôm
nay không phải chỉ là lời lẽ để « lột mặt nạ » các thành phần gian dối,
bất chính , mà là lời kêu gọi hối cải và biết thương người, để được
Thiên Chúa nhân từ thứ tha, cả đối với họ « các kinh sư và người Pharisêu
giả hình » ( Mt 23, 1-32).
Chúa Giêsu nhân danh Chúa Cha đến để giúp đỡ người tội
lỗi, bất cứ người tội lỗi đó là ai :
- « Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính,
mà để kêu gọi người tội lỗi » ( Mt 9, 13).
Và Ngài đem Nước Trời đến cho tất cả mọi người, không
trừ ai.
B - a) Đối với
người thiếu phụ tội lỗi, một lần nữa Thánh Augustino đã có nhận xét chí lý về
câu nói cuối cùng của Chúa Giêsu với người thiếu phụ :
- « Ta cũng vậy, Ta cũng không lên án con ! Hãy
ra đi, và từ nay đừng phạm tội nữa » ( Jn 8, 11b).
Qua câu nói của Chúa Giêsu, Thánh Augustino cho chúng
ta nhận xét :
Chúa Giêsu không lên án tội nhân, con người : « Ta cũng vậy, Ta cũng không lên án con !
».
Nhưng Chúa Giêsu lên án tội lỗi : « và từ nay đừng phạm tội nữa ! ».
Trong câu nói vừa kể, Chúa Giêsu tha tội cho người
thiếu phụ, « Ta cũng không lên án con
», nhưng không phải vì đó mà Ngài cho rằng nàng vô tội vạ, tội nàng lỗi phạm không đáng kể.
Tội nàng vấp phạm là một trọng tội, lỗi phạm đối với
Chúa và xúc phạm, bất chính đối với
người khác.
Tội lỗi là những gì sai trái, xấu xa, bất chính đối
với Chúa và đối với anh em.
Bởi đó, với lòng nhân từ, Chúa Giêsu tha cho nàng,
nhưng khuyên răn nàng đừng tái phạm, « và từ nay đừng phạm tội nữa !».
b ) Cử chỉ của Chúa Giêsu, qua lời nhận xét của Thánh Augustino, cũng là gương
mẫu cho cách hành xử của chúng ta, người Ki Tô hữu.
Chúng ta có thể noi gương Chúa Giêsu tha thứ cho những ai ( con người) có hành vi bất chính,
sai trái, lỗi phạm, « Ta cũng không
lên án con ».
Tha thứ , không có nghĩa là chúng ta biện hộ cho những
sai trái họ làm là điều « vô thưởng
vô phạt, không đáng kể ».
Tha thứ cho con người lỗi phạm, nhưng chúng ta không thể chấp nhận tội lỗi,
tư tưởng và quan niệm bất chính, ý thức hệ sai lạc, xúc phạm đến Thiên Chúa, bất chính và đê tiện hóa nhân
phẩm con người.
Tội lỗi, quan niệm bất chính, ý thức hệ sai lạc, bất
chính và đê tiện hóa nhân phẩm con người, là những gì vi phạm đến hai giới răn quan trọng nhứt của Ki Tô giáo : kính
Chúa và yêu người.
Đối với tội lỗi, quan niệm bất chính, ý thức hệ sai lạc, cách hành xử bất công và đê tiện
hoá nhân phẩm con người, chúng ta không
thể lẫn tránh trách nhiệm. Phải biết can
đảm lên án như Chúa Giêsu đã lên án : « và từ nay, đừng phạm tội nữa ! ».
c ) Chúa Giêsu tha thứ cho người thiếu phụ tội lỗi,
trả lại cho nàng tự do quyết định, trách nhiệm để định đoạt hành động trong
tương lai và địa vị con Thiên Chúa, để nàng sống lại tình con cái mà Thiên
Chúa luôn luôn dành cho con người.
Đem ơn sủng trở lại cho nàng và địa vị con Thiên Chúa,
Chúa Giêsu cũng đồng thời ủy thác cho nàng sứ mạng đem kinh nghiệm niềm vui được tha thứ và tình thương của Thiên Chúa đến cho anh em,
qua câu nói :
- « Con hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa »
( Jn 8, 11b) ( Va, désormais ne pèche plus »( La Sainte Bible, id.).
« Con hãy đi », hãy đi và đem kinh nghiệm tình thương
và niềm vui ân sủng Thiên Chúa đến cho anh em.
Đó cũng là ơn gọi của mỗi người tín hữu Chúa Ki Tô.