Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
Bài Viết Của
Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HIẾN CHẾ GAUDIUM ET SPES
NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN TRONG HIẾN CHẾ LUMEN GENTIUM - CHƯƠNG IV
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (40)
CÁM ƠN LÀ BIẾT SỐNG ĐỨC TIN
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (39)
GIÀU CÓ ĐÓNG CỔNG CON ĐƯỜNG ĐẾN CHÚA VÀ DỮNG DƯNG VỚI ANH EM
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (37).
CỦA CẢI VỮNG BỀN CHO ANH EM
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (36)
CHÚNG TA PHẢI ĂN MỪNG, EM CON ĐÃ CHẾT, MÀ NAY LẠI SỐNG.
“VÁC THẬP GIÁ MÌNH MÀ THEO TA”
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (34)
“AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC TÔN LÊN ”.
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (33)
“HÃY CỐ GẮNG QUA CỬA HẸP MÀ VÀO”
TÌM HIỀU PHÚC ÂM THÁNH LUCA ( 32)
NHẬN BIẾT DẤU CHỈ THỜI ĐẠI ĐỂ CHỌN LỰA MỤC ĐÍCH CHÍNH ĐÁNG
“BỞI ĐÂU TÔI ĐƯỢC THÂN MẪU CHÚA TÔI ĐẾN VỚI TÔI”
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (31)
PHẢI SẴN SÀNG ĐỢI CHỦ VỀ
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (30)
“HÃY LO TÌM NƯỚC THIÊN CHÚA”
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (29)
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XẴ HỘI CỦA GIÁO HỘI (5).
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (28)
"MARIA ĐÃ CHỌN PHẦN TỐT NHẤT"
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (4)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (27)
" AI THÂN CẬN VỚI NGƯỜI BỊ RƠI VÀO TAY KẺ CƯỚP ? "
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HÔI (3)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (26)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (25)
" ANH HÃY THEO TA ! "
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (2).
THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ CỦA THIÊN CHÚA.
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (1)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (23)
NÀNG ĐƯỢC THA THỨ NHIỀU, VÌ NÀNG ĐÃ THƯƠNG YÊU NHIỀU
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (22)
TA TRUYỀN CHO ANH HÃY TRỖI DẬY !
ANH EM KHÔNG CÒN LÀ NÔ LỆ NỮA, MÀ LÀ CON

 

SUY NIỆM PHÚC ÂM ( IV C 18 ); ( 10.03.2013 ); ( Lc 15, 1-3.11-31 )

CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY, NĂM C

 NGUYỄN HỌC TẬP

 

Đoạn Phúc Âm Thánh Luca hôm nay thuật lại cho chúng ta một biến cố tương tợ như biến cố được Thánh Matthêu kể lại, đó là việc các kinh sư và người Pharisêu chỉ trích Chúa Giêsu để cho hạng người thâu thuế và những kẻ tội lỗi đến với Ngài.

Trong Phúc Âm Thánh Matthêu, không những Chúa Giêsu để cho hạng người thu thuế và kẻ tội lỗi đến với Ngài, mà Ngài còn kêu gọi kẻ thâu thuế trở thành Môn Đệ Ngài, kêu gọi Thánh Matthêu là kẻ thâu thuế ( hay siết thuế, bị xã hội khinh bỉ, (Mt 9, 9), và ngồi ăn uống đồng bàn với họ: 

   - " Khi Chúa Giêsu đến dùng bửa tại nhà ông ấy, có nhiều người thâu thuế và kẻ tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các Môn Đệ" ( Mt 9, 10). 

Khi biết được các kinh sư và người Pharisêu chỉ trích thái độ vừa kể của Ngài, Chúa Giêsu thẳng thắng trả lời: 

   - " Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi " ( Mt 9, 13). 

Chúa Giêsu đứng về phía kẻ yếu thế bị xã hội hạ giá ( những người thâu thuế) và kẻ tội lỗi,

   - để xoá bỏ đi mặc cảm tội lỗi, đem niềm tin đến cho họ, tin vào tình thương và lòng  nhân ái đại lượng tha thứ của Chúa Cha;

   - giải thích và đem lại cho họ cơ hội để hối cải, trở lại trong tình con cái hiếu thảo, đáp lại tình thương Cha con hải hà của Thiên Chúa. 

Cũng cùng mục đích nói lên tình thương của Thiên Chúa và đem lại lòng tin tưởng và cơ hội cho kẻ bé mọn  và người tội lỗi trở lại, Thánh Luca thuật lại cho chúng ta một cách hành xử khác của Chúa Giêsu, trong một trường hợp tương tợ của Phúc Âm hôm nay.

Khi nghe các kinh sư và người Pharisêu chỉ trích: 

   - " Các người thâu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu  và các kinh sư bèn xì xầm với nhau: Ông nầy đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng" ( Lc 15, 1-2), thay vì trả lời thẳng thắng như trong Phúc Âm Thánh Matthêu, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để khuyên dạy họ.

Nghe dụ ngôn, mỗi người tự quyết định theo hay chối bỏ những gì Nước Thiên Chúa đòi buộc phải có: 

   - " Chúa Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn nầy" ( Lc 15, 3). 

Theo văn mạch thì " Chúa Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn nầy" ( một dụ ngôn),  nhưng liên tiếp đồng loạt Thánh Luca thuật lại Chúa Giêsu kể cho những ai nghe Người lúc đó ba dụ ngôn:

   -  dụ ngôn thiếu phụ và đồng bạc bị đánh mất ( Lc 15, 8- 10)

   - và sau cùng là dụ ngôn " người con trai hoang đàng" ( Lc 15, 11-31), để cống hiến cho những ai nghe Ngài lý chứng dư thừa về tình thương Cha con, mối quan tâm của Thiên Chúa đối với mỗi người trong chúng ta, đối với bất cứ ai, cả đến những người mà xã hội chúng ta coi  là hạng chót, hạng phế thải, hạng bị loại ra bên lề, những người hèn hạ và những kẻ tội lỗi. 

Cả ba dụ ngôn đều cho thấy người đương cuộc trong câu chuyện, người mục tử, người thiếu phụ và người cha đều vui mừng tìm lại được những gì mình đã mất

   - " Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó" ( Lc 15, 6).

   - " Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè hàng xóm lại, và nói: Xin chung vui với tôi, vì tôi đạ tìm được đồng quan tôi đã đánh mất" ( Lc 15, 9).

   - " Anh ta còn ở đáng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để…Mau đem áo đẹp nhứt ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẩn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng. Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy"( Lc 15, 20.22). 

Và Chúa Giêsu kết luận cho mọi người hiểu, bằng một câu rất ý nghĩa trong dụ ngôn người thiếu phụ và đồng quan bị đánh mất: 

   - " Cũng thế, Ta nói cho các ông biết: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi  ăn năn sám hối" ( Lc 15, 10). 

Rất tiếc, để tránh cho đoạn Phúc Âm trong Thánh Lễ hôm nay quá dài, Ủy Ban Phụng Vụ Toà Thánh đã bỏ qua hai dụ ngôn đầu tiên và chỉ đề nghị chúng ta suy niệm dụ ngôn cuối. 

Dụ ngôn được đề nghị suy niệm hôm nay là dụ ngôn " người con trai hoang đàng" ( Lc 15, 11-31), như chúng ta quen gọi.

Thật ra gọi như vậy, có lẽ không chính xác, bởi vì nhân vật chính trong dụ ngôn không phải chỉ là người em trác táng, ăn chơi, vung vãi tiền bạc, đàng điếm, tội lỗi, mà cả người anh  chí thú làm việc, tuân theo ý muốn của cha anh không sai một chấm một phết, như các đấng bậc cao cả " đường đường chính chính", các kinh sư và thành phần chọn lọc "pharisêu, élites" trong xã hội.

Hiểu như vậy, chúng ta sẽ thấy dụ ngôn là câu trả lời của Chúa Giêsu đối với thái độ "xầm xì" chỉ trích của các kinh sư và người Pharisêu , phê bình Người " đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng ".

Có lẽ chúng ta nên gọi dụ ngôn là dụ ngôn " người cha nhân lành" thì đúng hơn, để diễn tả lòng đại lượng và ưu ái của Chúa Cha đối với mọi người trong chúng ta, qua cử chỉ của người cha đối với cả hai đứa con.

Trong dụ ngôn " người cha nhân lành", chúng ta thấy cả hai thái độ của hai đứa con là thái độ kém hiểu biết, đáng trách, đối với những gì người cha nhân lành dành cho cả hai, làm cho tình cha con rạn nứt.

Trước hết thái độ nằng nặc đòi cho bằng được phần gia tài mà cho rằng mình có quyền chiếm đoạt, không nghĩ gì đến đời sống chung trong gia đình mà anh ta cũng phải lo cho người cha: 

   " Thưa cha, xin cho con phần  tài sản của con được hưởng" ( Lc 15, 12).  

Và rồi sau khi được chia của, anh ta ra đi, sống phung phí, phóng đãng, để lại người cha và người anh không cần biết, " sống chết mặc kệ":

   - " Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả , rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình" ( Lc 15, 13). 

Đó là thái độ vô tâm, bất hiếu , vô nhân đối với người thân và cũng quên mất cả Thiên Chúa trong ý nghĩa những gì chúng ta đã có dịp suy niệm trong đoạn Phúc Âm " Bài Giảng Dưới Đồng Bằng" ( Phước Cho và Khốn Thay ! )  của Thánh Luca ( Lc 6, 20-26).

Và chính trong tâm thức đó, Chúa Giêsu kêu gọi hối cải, không chần chờ  bằng lời cảnh cáo trong bài Phúc Âm Chúa Nhật vừa qua:

   - " Nếu các ngươi không chịu thống hối, thì các ngươi cũng sẽ chết như vậy" ( Lc 13, 5). 

Con người không thể sống chỉ bám víu vào cách hạnh phúc trần gian có giới hạn, mà để mất đi Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc viên mãn và bất diệt.

Không có Thiên Chúa, con người " cũng sẽ chết như vậy !". 

Nhưng trong dụ ngôn đang bàn, người con thứ gặp phải hoàn cảnh khốn cùn sớm hơn dự tính,  do những suy tính bốc đồng và cuộc sống bừa bãi vừa kễ: 

- " Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp.Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người nông dân trong vùng; người nầy sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu Và mồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho" ( Lc 15, 14-15). 

Anh ta bắt đầu suy tính. Có lẽ suy tính hơn thiệt, đúng hơn là hối cải những gì  đã làm rạn nứt tình thương cha con như bát nước đầy đối với anh: 

   - " Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói" ( Lc 15, 17). 

Nhưng người cha không nhõ nhặc, cân nhắc, đo lường, kéo thẳng mực tàu, " công thưởng tội trừng", " ăn miếng trả miếng", " Chúa phạt khốn nạn", như nhiều lần chúng ta, người công giáo hay không công giáo cũng vậy, trình bày  Thiên Chúa cho người khác như là  

   - " Vị thần khi ẩn, khi hiện trong các cơn sấm sét ngập trời trên núi Văn Vú để thẳng tay trừng phạt bất dung tha". 

Người cha trong dụ ngôn, hay Thiên Chúa trong các lời giảng dạy của Chúa Giêsu là người Cha biết trước những gì con cái của mình cần và thấu hiểu những gì sâu xa trong tâm thức mỗi người chúng ta: 

   - " Khi cầu nguyện , anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng cứ nói nhiều là được nhận lời. Đứng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin" ( Mt 6, 7-8).

 - " Còn anh khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa lại, và nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đáng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh" ( Mt 6, 6). 

Người Cha trong Phúc Âm là người Cha như vừa kể, thấu hiểu, thương yêu và không cân nhắc ty tiện, không cần biết tại sao " thằng đó nó trở về", mà chỉ cần nó trở về và chưa cần nó thốt lên tiếng nào: 

   - " Anh ta còn đang ở xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta mà hôn lấy hôn để" ( Lc 15, 20).  

Bởi vì: 

   - " Ta nói cho các ông biết: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" ( Lc 15, 10). 

Nhân vật quan trọng thứ hai trong dụ ngôn " người cha nhân lành" là anh con trai cả, đường đường chính chính, dù một chấm một phết luật lệ cũng không sai lỗi, không thiếu bổn phận đối với gia đình, không hề cải ý cha.

Là người hoàn hảo, mẫu mực, thành phần chọn lọc ( élite) trong gia đình và xã hội,  ai cũng phải kính nễ, như các kinh sư và người Pharisêu: 

   - " Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh…" ( Lc 15, 29). 

Những cử chỉ của anh là cử chỉ của những người hoàn hảo, cao cả, gương mẫu, tuân hành luật lệ, nhưng là tuân hành trong thái độ của kẻ bàng quan, người dưng kẻ lạ,  người nô lệ, chớ không phải "không bao giờ trái lệnh",  được thúc đẩy bằng tình thương gia đình, tình  con cái đối với cha mẹ.

Câu nói kế tiếp của anh và câu trả lời của cha anh cho chúng ta thấy thái độ " khuôn thước luật pháp đúng đắn", nhưng không có tình thương con cái của anh đối với cha. 

     - " thế mà chưa bao giờ cha cho con đươc một con dê để con ăn mừng với bạn bè" ( Lc 15, 29 b ).

Và cha của anh trả lời: 

   - " Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con" ( Lc 15, 31). 

Hai câu đối đáp vừa kể cho chúng ta thấy trong  tâm trạng của người con cả: cha của anh chỉ là người dưng kẻ lạ: 

- " bao nhiêu năm trời, con hầu hạ cha..." ( Lc 15, 29) là vì anh hành động sợ xúc phạm, sợ phạm luật như kẻ bàng quang, như người nô lệ, chớ không phải  sợ xúc phạm tình cha con trong gia đình.

Đối xử với cha anh như người dưng kẻ lạ, mối tương quan dựa trên luật pháp. 

Nếu " tất cả những gì của cha là của con", thì chuyện gì nhất cử nhất động phải xin phép, chờ đợi để trách cứ " chưa bao giờ cha cho con được một con dê để ăn mừng với bạn bè".

Phải chăng đó là thái độ nô lệ và trẻ con, của kẻ tưởng mình trưởng thượng, hoàn hảo, không hề lỗi luật, thành phần chọn lọc ( élite), thái độ kinh sư và Pharisêu.

Phóng đãng, phung phí, vung vải tài sản  làm hại gia đình là một chuyện, nhưng khiếp đảm, rung sợ, trẻ con, chuyện gì cũng phải xin phép và cho phép, là thái độ của kẻ không biết gì tình cha con, tình cảm của những người thân với nhau trong gia đình và là người chưa xử dụng trí nảo của mình để phán đoán phải trái.

Tinh thần nô lệ đó để " tuân giữ trọn hảo lề luật", " chẳng khi nào làm trái lệnh" là thái độ tuân giữa lề luật ấu trỉ, nặng hình thức và nhiều khi đưa đến bất nhân.

Chúa Giêsu đã khẳng định chống lại lối tuân giữ luật lệ nặng hình thức và bỏ đi điều chính yếu của các kinh sư và người Pharisêu: 

   - " Ngày sabat được tạo nên cho con người, chớ không phải con người cho ngày sabat. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sabat" ( Mc 2, 27-28). 

Con người mới trong Nước Trời không phải là người nô lệ, mà là người con, sống trong tình cảm con cái thanh thoát, tự do và yêu thương đối với Thiên Chúa:  

   - " Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thánh Thần của Con Ngài đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Abba, Cha ơi! Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con, thì cũng là người thừa kế nhờ ơn Chúa" (Gal 4, 6-7). 

Tuân giữ luật lệ trong Nước Thiên Chúa, không phải là lối tuân giữ nặng hình thức, mà là tuân giữ những bậc thang giá trị được Chúa Giêsu đem đến: công lý, quảng đại và thành tín

   - " Khốn cho các người, hởi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều nầy vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không thể bỏ. Hạng người dẫn đường mù quáng! Các ngươi lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà" ( Mt 23, 23). 

Và cũng chính vì nặng hình thức " chẳng khi nào trái lệnh…" và ấu trỉ mà người anh cả đâm ra mù quáng,  ganh tỵ, không thương xót đối  với đứa em của mình, ngay cả lúc nó đang gặp hoạn nạn: 

   - " Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết gia tài của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê ăn mừng!" ( Lc 15, 30). 

Thái độ nặng hình thức và ấu trỉ sinh ra ganh tỵ đến bất nhân,  không còn đếm xỉa gì đến tình cảm cha con, anh em trong gia đình, ngay cả khi người cha van nài hơn thiệt, anh cũng không nghe: 

   - " Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết, mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy" ( Lc 15, 32).  

Ganh tỵ đến bất nhân, bất chấp cả tình máu mủ gia đình, khiến người con cả bất chấp cha và không đếm xỉa gì đến  em út: 

   - " Người anh cả nỗi giận và không chịu vào nhà"( Lc 15, 28). 

Như vậy người em tội lỗi ( những người thâu thuế và người tội lỗi) biết ăn năn, quay về nhà cha, được người cha  

   - " …chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh và hôn lấy hôn để ", được cha truyền cho gia nhân  

   - " mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẩn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con dê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng" ( Lc 15, 22b-23),  vào nhà dự tiệc chung vui hạnh phúc với gia đình Nước Thiên Chúa.

Trong khi đó thì người anh cả, đường đường chính chính, hoàn hảo, nặng hình thức, ấu trỉ và ganh tỵ đến vô tâm và vô nhân, " chẳng khi nào trái lệnh "( như các kinh sư và người Pharisêu), tự loại mình ra khỏi gia đình Thiên Chúa: 

    - " Người anh cả nổi giận và không chịu vào nhà". 

Tuân giữ lề luật Nước Trời, không phải khép nép, sợ sệt và ấu trỉ như kẻ nô lệ, mà là người con với tình  con cái  tuân giữ, thanh thoảng, tự do và với tình yêu thương  thực thi và can đảm  đứng ra hy sinh để bênh vực công lý, quảng đại và thành tín như Cha trên trời là Đấng trọn hảo

   - " Vậy anh em hãy nên trọn hảo, như Cha anh em trên trời là Đấng trọn hảo" ( Mt 5, 48).

 

 

Tác giả: Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!