Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
Bài Viết Của
Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HIẾN CHẾ GAUDIUM ET SPES
NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN TRONG HIẾN CHẾ LUMEN GENTIUM - CHƯƠNG IV
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (40)
CÁM ƠN LÀ BIẾT SỐNG ĐỨC TIN
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (39)
GIÀU CÓ ĐÓNG CỔNG CON ĐƯỜNG ĐẾN CHÚA VÀ DỮNG DƯNG VỚI ANH EM
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (37).
CỦA CẢI VỮNG BỀN CHO ANH EM
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (36)
CHÚNG TA PHẢI ĂN MỪNG, EM CON ĐÃ CHẾT, MÀ NAY LẠI SỐNG.
“VÁC THẬP GIÁ MÌNH MÀ THEO TA”
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (34)
“AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC TÔN LÊN ”.
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (33)
“HÃY CỐ GẮNG QUA CỬA HẸP MÀ VÀO”
TÌM HIỀU PHÚC ÂM THÁNH LUCA ( 32)
NHẬN BIẾT DẤU CHỈ THỜI ĐẠI ĐỂ CHỌN LỰA MỤC ĐÍCH CHÍNH ĐÁNG
“BỞI ĐÂU TÔI ĐƯỢC THÂN MẪU CHÚA TÔI ĐẾN VỚI TÔI”
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (31)
PHẢI SẴN SÀNG ĐỢI CHỦ VỀ
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (30)
“HÃY LO TÌM NƯỚC THIÊN CHÚA”
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (29)
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XẴ HỘI CỦA GIÁO HỘI (5).
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (28)
"MARIA ĐÃ CHỌN PHẦN TỐT NHẤT"
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (4)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (27)
" AI THÂN CẬN VỚI NGƯỜI BỊ RƠI VÀO TAY KẺ CƯỚP ? "
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HÔI (3)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (26)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (25)
" ANH HÃY THEO TA ! "
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (2).
THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ CỦA THIÊN CHÚA.
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI (1)
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (23)
NÀNG ĐƯỢC THA THỨ NHIỀU, VÌ NÀNG ĐÃ THƯƠNG YÊU NHIỀU
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (22)
TA TRUYỀN CHO ANH HÃY TRỖI DẬY !
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA (9)

NGUYỄN HỌC TẬP

3 -  Chúa Giêsu mười hai tuổi trong đền thờ ( Lc 2, 41-52). 

Đoạn tường thuật cuối cùng về thời niên thiếu của Chúa Giêsu trong Phúc Âm Thánh Luca, khác với đoạn song song trong Phúc Âm Thánh Gioan.

Chúa Giêsu được mười hai tuổi, lứa tuổi mà theo truyền thống Do Thái có từ thế kỷ thứ nhứt,

   - Samuel băt đầu nói tiên tri ( 1 Sam 3)

   - Daniel bắt đầu nói lên một ý kiến rất khôn ngoan ( Dan 13).

Dù sao đi nữa, đó là lứa tuổi thanh thiếu niên chưa trưởng thành: do đó sự khôn ngoan của các chú được nói lên với mục đích nhấn mạnh làm nổi bậc.

Nói một cách ngắn gọn hơn, đây là đoạn tường thuật duy nhứt về thời niên thiếu, để đánh dấu cuộc chuyển tiếp từ những gi đã được tường thuật về khởi thủy qua giai đoạn bắt đầu thực hiện sứ mạng.

Đây là biến cố được liên kết lần thứ hai với những gì được kể lại trước đó:

   - Chúa Giêsu đang ở trong đền thờ, nơi mà trước đó Người được nhận biết bởi bài ca chúc tụng và lời tiên tri của Simeon ,

   - giờ đây Người tỏ ra sự khôn ngoan của Người giữa các thầy thông thái luật và cho cha mẹ Người biết mối liên hệ của Người với Chúa Cha..

Đồng thời, lần đầu tiên nầy lên Giêrusalem của Chúa Giêsu để mừng lễ Vượt Qua loan báo cho biết chuyến đi trọng đại,

   - " Khi đã đến ngày Chúa Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem ..." ( Lc 9, 51...)

   và cũng là lần giảng dạy cuối cùng trong đền thờ,

   - " Hằng ngày Người giảng dạy trong Đền Thờ. Các thượng tế và kinh sư tìm cách giết người " ( Lc 19, 479,

  - " Một hôm, đang khi Chúa Giêsu giảng dạy cho dân trong Đền Thờ và loan báo Tin mừng, thì các thượng tế và kinh sư cùng các kỳ mục kéo đến ..." ( Lc 20, 1). 

Lề Luật Do Thái truyền dạy chuyến hành hương lên Giêrusalem nhân dịp ba ngày lễ trọng đại: Vượt qua, Hiện Xuống ( hay Lễ các tuần lễ ) và ngày Lễ Lều:

   - " Ngươi sẽ mừng lễ kính Ta mỗi năm ba lần " ( Ex 23, 14),

   - " Mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông con trai của anh em phải đến trình diện trước Chúa, ở nơi Người chọn: vào dịp Lễ Bánh Không Men, Lễ Ngũ Tuần và Lễ Lều " ( Dt 16, 16).

Nhưng tập tục miễn chuẩn cho ai ở quá xa cách thành phố, chỉ trừ Lễ Vượt Qua, được kéo dài trong tám ngày:

   - " Lễ Bánh Không Men cũng được gọi là Lễ Vượt Qua đã đến gần. Các thượng tế và kinh sư tìm cách thủ tiêu Chúa Giêsu, vì họ sợ dân " ( Lc 22, 1 ).  

Trung tâm điểm của bối cảnh gồm có hai phần có tầm quan trọng khác nhau:

   - " Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy , vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: " Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây phải cực lòng tìm con. Người đáp: " Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao " ( Lc 2, 46-49). 

  

 a ) Phần thứ nhứt nói lên trí khôn ngoan của Chúa Giêsu , đó là biết được ý muốn của Chúa Cha, được mạc khải trong Thánh Kinh và phải vâng hành theo ý muốn đó.

Trí khôn ngoan đó được tỏ ra làm cho dân chúng ngạc nhiên, cũng như sự ngạc nhiên đối với các biến cố phép lạ sắp được thực hiện sau đó:

   - " Mọi người đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ kinh hãi bảo nhau. " Hôm nay chúng ta đã thấy những chuyện lạ kỳ " ( Lc 5, 26),

   - " Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Chúa Giêsu.Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy " ( Lc 9, 36),

   - " Và khi nhận ra chính là người vẫn ngồi ăn xin tại Cửa Đẹp Đền Thờ, họ kinh ngạc sững sờ về sự việc mới xảy đến cho anh " ( Act 3. 10 ).

Và song thân Chúa Giêsu là đìều kinh ngạc lạ lùng, mà chúng ta sẽ gặp lại nơi những người lắng nghe lời giảng dạy của Người trong hội đường ở Capharnaum:

   - " Họ sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Người có uy quyền " ( Lc 4, 32 ).

 

   b) Phần thứ hai nói lên thượng đỉnh của đoạn tường thuật. Trước cử chỉ than trách của Mẹ Maria, Chúa Giêsu bằng hai câu hỏi và đồng thời cũng là một lời trách móc:

   - " Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? " ( Lc 2, 49) 

Chính Mẹ Maria là người lên tiếng hỏi ( Thánh Giuse luôn luôn thinh lặng trong suốt hai chương 1 -2 của Thánh Luca) và Thánh Luca không lấy gì làm khó chịu bằng cách gọi vị hôn phu của mình là " cha con " , bởi vì trong câu trả lời Chúa Giêsu sẽ nói đến một người Cha khác, Cha thiên quốc.

Mẹ Maria nói về "các bổn phận con cái " , trong khi nghĩ đến điều răn thứ năm :

  - " Ngươi phải thờ kính cha mẹ, để được sống lâu trên đất, mà Chúa, Thiên Chúa của ngưoi ban cho ngươi " ( Ex 20, 12).

Chúa Giêsu trả lời bằng câu nói huớng về điều răn thứ nhứt:

   - " Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngưoi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẻ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước, phía dưới mặt đất , để mà thờ. Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phượng thờ. Vì Ta, Chúa, Thiên Chúa của ngươi , là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời , vì tội lỗi của cha ông .Còn đối với những ai yêu mến Ta và tuân giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời " ( Ex 20, 3 - 6 ).

Chúa Giêsu là người con vâng lời Chúa Cha trên trời.

Đó cũng là những lời nói đầu tiên và sau cùng trước khi tắt thở, nhớ đến Chúa Cha.

   - " Chúa Giêsu kêu lên lớn tiếng: " Lạy Cha, con phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong Người tắt thở " ( Lc 23, 46 ).

Trong câu trả lời của Chúa Giêsu, " Cha mẹ không biết con có bổn phận ( con phải ) ở nhà Cha con sao ? " , động từ " con có bổn phận " ( con phải ) chúng ta sẽ còn gặp lại 9 lần khác trong Phúc Âm Thành Luca,

   - để nói lên sứ mạng của Chúa Giêsu,

     * " Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành phố khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó " ( Lc 4, 43 )

   - và nhứt là cuộc khổ nạn và phục sinh của Người,

     * " Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kinh sư và các kỳ mục loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy " ( Lc 9, 22),

     * " Nào Đấng Kitô chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? " ( Lc 44, 26.)

Động từ " con có bổn phận " ( con phải ) đó nằm trong đố án cứu độ mà Chúa Giêsu phải đãm nhận ,

Trước lời tuyên bố " con có bổn phận " ( con phảì ) đó không có gì làm cho chúng ta phải ngạc nhiên trước cử chỉ của Mẹ Maria và Thánh Giuse

   - " không hiểu lời Người vừa nói " ( Lc 2, 50 ).

Mẹ Maria và Thánh Giuse cũng là hình ảnh của các môn đệ " không hiểu " , khi Chúa Giêsu loan báo lần thứ ba  về cuộc khổ nạn của Người,

   - " Nhưng các ông không hiểu gì cả, đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói " ( Lc 18, 4 9. 

Nhưng có người trong chúng ta sẽ đặt câu hỏi  làm sao Thánh Luca có thể đặt Mẹ Maria vào vị trí      " không hiểu " những điều Chúa Giêsu nói ra, trong khi Mẹ đã được nhiều điều mạc khải - từ thiên sứ  Gabriel, đến các mục đồng, ông Simeon - về vị trí bất thường của đứa con mình và Mẹ đã 

   -  " hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng " ( Lc 2, 19) ? 

Mẹ Maria đã nghe biết con mình là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa, nhưng Mẹ thực sự đã hiểu được ý nghĩa những gì vừa kể không?

Chắc chắn Mẹ không biết được với phương thức nào những điều đó sẽ được thực hiện.

Bằng cách kết thúc hai lần và nói lên bằng hai câu nói lập lại,

    - " Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói " ( Lc 2, 50),

    - " Còn Chúa Giêsu càng ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Chúa và người ta " ( Lc 2, 52 ),

Thánh Luca nói lên thái độ không có khả năng  hiểu biết của song thân và cho thấy Chúa Giêsu, khi trở về Nazareth, trở thành người tuân giữ chính xác của một đứa con hiếu thảo đối với Lể Luật.  

Kế đến Phúc Âm Thánh Luca tiếp tục lập lại " ghi nhớ " của Mẹ Maria: Mẹ tiếp tục suy nghĩ về mầu nhiệm ( Lc 2, 19) chỉ được kết thúc và hiểu được , cũng như đối với các môn đệ, sau ánh sáng Phục Sinh:

   - " Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Chúa Giêsu, và với anh em của Chúa Giêsu " ( Act 1, 14 ). 

Về việc nhắc đi nhắc lại " Hài Nhi càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Thiên  Chúa ", Thánh Luca đặc tâm lưu ý đến trạng thái Chúă Giêsu lớn lên như bất cứ một cậu thanh thiếu niên nào khác: càng lớn lên, càng đầy ơn Chúa.

" Ân nghĩa " nói lên tình trạng đẹp lòng, dễ thương trước mặt Chúa và trước mặt mọi người, để nói lên không những Chúa Giêsu càng trở nên thánh đức, mà cũng càng trở nên lịch sự tế nhị, đễ thương trước mặt người khác.

Chúa Giêsu lớn lên về đủ mọi mặt, thể xác, trí tuệ, tình cảm, thánh đức, chuẩn bị cho đại công trình đang chờ đợi Người.

Điều lưu ý cuối cùng của đoạn Phúc Âm, đó là việc trở về Nazareth, khiến cho chu kỳ thanh thiếu niên bị giam hảm lại trong Đền Thờ.

Thật vậy, sau một thời gian khá dài  ( Lc 3- 19 ), Chúa Giêsu mới lại trở lại Đền Thờ Giêrusalem.

 

  4 - Kết luận.

Trước khi chấm dứt đoạn Phúc Âm về " thời niên thiếu " Chúa Giêsu, chúng ta có thể đặt 2 câu hỏi: 

   1 ) Từ nguồn mạch nào Thánh Luca đã có thể múc lấy để viết lên hai chương Phúc Âm mà chúng ta vừa tìm hiểu qua ?  

Đoạn tường thuật của Thánh Matthêu liên hệ  chắc chắn không thể đặt song song với đoạn của Thánh Luca. Bởi lẽ có rất nhiều khác biệt nhau. Ví dụ như chương 2 của Thánh Matthêu không đề cập gì đến biến cố Chúa Giêsu sinh ra, trong khi đó thì ngài lại ghi lại các biến cố mà Thánh Luca không biết: cuộc kính viếng của ba nhà chiêm tinh, cuộc thảm sát các trẻ em vô tội..., Thánh Giuse được mạc khải về số phận của Chúa Giêsu...

Nói một cách ngắn gọn, hai đoạn tường thuật chắc chắn không có căn nguyên từ một nguồn mạch chung. 

Tuy nhiên trong hai Phúc Âm chúng ta gặp được những điểm đồng quy:

   - phân cách của hai vị song thân; hai người đính hôn chưa có mối liên hệ tình dục với nhau;

   - biến cố truyền tin của thiên sứ cho việc thu thai trinh tuyết nhờ quyền năng của Chúa Thánh   Thần, 

   - Chúa Giêsu được sinh ra ở Bethlem,

   - cuộc đời niên thiếu của Người ở Nazareth.

Thánh Matthêu và Thánh Luca đều đồng thuận về tính chất Đấng Cứu Thế của Chúa Giêsu, Đấng có mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa, hai vị cũng đồng thuận về chủ đề mà hai vị trình bày một cach khá khác nhau, đó là: thái độ từ chối của Israel và lời kêu gọi đối với các dân ngoại.

Như vậy thái độ sát hại các hài nhi của vua Erode và cuộc bái lạy của các nhà Chiêm Tinh trong Phúc Âm Thánh Matthêu có ý nghĩa tương đồng với lời tiên tri của Simeon trong Phúc Âm Thánh Luca: 

   - " Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ, Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Người...Thiên Chúa đã đặt cháu bé nầy làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng, và như vậy những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra..." ( Lc 2, 31-35).  

Hai yếu tố tương đồng vừa kể cho phép chúng ta kết luận rằng trước khi Thánh Luca và Thánh Matthêu viết Phúc Âm, trong một vài cộng đồng Giáo Hội trước năm 70, đã có những truyền thống về hai yếu tố vừa kể, nhằm củng cố đức tin vào Chúa Giêsu, là Thiên Chúa, mặc dầu được thể hiện dưới những hình thức khác nhau.

Thánh Luca có nhiều nguồn tài liệu khác nhau, có lẽ được viết bằng tiếng Hy Lạp:

   - một " huyền thoại " về cuộc sinh ra của Gioan Tẩy Giả,

   - đoạn được thuật lại truyền khẩu cho nhau về biến cố truyền tin cho Mẹ Maria,

   - các bài ca ngợi khen của Mẹ Maria, Zaccaria và cả mối liên hệ giữa Mẹ Maria và bà Elisabeth. Trong bản văn, không có gì chứng tỏ cho biết Thánh Luca được Mẹ Maria tâm tình cho biết. 

 Dựa trên những yếu tố vừa kể và múc lấy từ Cựu Ước, Thánh Luca đã viết lên hai chương đầu của Phúc Âm một cách tự do và cả đến những gì sẽ được đề cập đến trong Sách Tông Đồ Công Vụ cũng vậy.

Nhưng ngài đã khai thác rộng rãi hơn những gì được truyền thống cung cấp cho, để giải thích cho những ai đọc Phúc Âm ngài về mầu nhiệm Chúa Giêsu. 

   2 ) Hai chương Lc 1-2  có tính cách lịch sử đến tầm mức nào?  

Câu hỏi thứ hai được đặt ra, đó là có nhiều nhân vât trong Phúc Âm về cuộc đời niên thiếu của Chúa Giêsu . Như vây không phải chỉ có  Mẹ Maria - được mạc khải cho về tuơng lai của Chúa Giêsu;

   - các mục đồng cũng " thuật lại về những gì đã được nói với họ về Hài Nhi Giêsu ".

   - bà Anna đã " nói về hài Nhi Giêsu với tất cả những ai đang mong đợi cuộc giai phóng Giêsusalem" ; 

   - nhiều thầy thông thái luật đang minh chứng trí khôn ngoan của Chúa Giêsu lên mười hai tuổi trong đền thờ .Nhưng những hiểu biết đó không được đề cập đến trong Phúc Âm Thánh Luca ( Lc 3);

   - không có một con người nào, cả Phêrô lẫn viên đột trưởng dưới chân Thánh Giá sẽ tuyên xưng Chúa Giêsu là - Con Thiên Chúa  ( tước vị được báo cho Maria trong ( Lc 1, 35):  

   - " Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà, va quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa " ( lc 1, 35 ).  

Nhưng đối với những tước vị được mạc khải cho các mục đồng, Thánh Luca đã phổ biến ra: 

   - " Hôm nay, một đấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua David, Người là Đấng Kitô Thiên Chúa " ( Lc 2, 11).

   - " Thấy thế họ liền kể lại về điều đã được nói với họ về  Hài Nhi nầy "  (Lc 2, 17). 

Tuớc hiệu " Đấng Cứu Độ", chúng ta chỉ gặp được trong các đoạn Sách Tông Đồ Công Vụ, từ miệng Thánh Phêro thốt ra:

   - " ...và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền, nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội " ( Act 5, 31),

và từ Thánh Phaolồ:

   - " Từ dòng dõi vua David nầy, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến cho Israel một Đấng Cứu Độ là Chúa Giêsu " ( Act 12, 23).

Nếu trong Phúc Âm Thánh Luca có người đã hướng về Chúa Giêsu, gọi Người là " Chúa ", thỉ tưóc hiệu " Con Thiên Chúa " chỉ được Thánh Phêrô nói lên một lần:

   - " Ngài ở lại Damasco với các môn đệ mấy hôm, rồi lập tức ông bắt đầu rao giảng Chúa Giêsu trong các hội đường. rằng Người là Con Thiên Chúa " ( Act 9, 20 ), trước khi bị các miệng lưỡi không tin chối bỏ trong biến cố Khổ Nạn. 

Còn về vấn đề thu thai trinh tuyết, đều không được ai biết đến,trong Phúc Âm cũng như trong Sách Tông đồ Công Vụ của Thánh Luca. 

Tất cả những điều đó nói lên sự khác biệt giữa những gì được tường thuật lại trong Phúc Âm Thánh Luca về thời niên thiếu của Chúa Giêsu và phần còn lại của những gì người tường thuật lại.

Nếu trong hai chương ( Lc 1-2 ) đã loan báo tất cả đức tin của Giáo Hội, chính bởi vì hai chương vừa kể được soi sáng bởi ánh sáng Phục Sinh và biến đức tin đó thành hành động.

Tính cách Đấng Cứu Độ và bản tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu, mà thiên sứ loan báo cho các ,mục đồng, được Thánh Phêrô bắt đầu rao giảng sau Phục Sinh: 

   - " Vậy toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều nầy: Chúa Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt người là Đức Chúa và làm Đấng Kitô " ( Act 5, 36). 

Nhưng phẩm giá mà Chúa Giêsu nhận được sáng ngày Phục Sinh, Thánh Luca tuyên xưng - cùng với toàn thể Giáo Hội - là những gì đã hiện diện một cách bí nhiệm nơi Con của Mẹ Maria ngay từ lúc sinh ra. 

   

Tác giả: Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!