Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Gia đình là cột trụ của xã hội thì hôn
nhân là cột trụ của gia đình và dĩ nhiên cũng là cột trụ của xã hội và quốc
gia, vì không có hôn nhân, không thể có gia đình. Muốn bảo vệ xã hội và quốc
gia thì phải bảo vệ hôn nhân. Chắc những vị lớn tuổi còn nhớ những bài học giáo
khoa thư tiểu học hồi còn ở quê nhà nói về cảnh gia đình đầm ấm. Thật là êm đềm
và thân thương biết bao cứ mỗi buổi tối, khi cả nhà đã ăn cơm tối xong, mọi người
đều quây quần bên nhau. Cha đọc báo, các con ê a học bài, mẹ ngồi khâu vá, đám
nhỏ không có gì làm thì xúm nhau quanh bà nội nghe kể chuyện cổ tích….
Bây giờ đời sống con người văn minh hơn,
cuộc sống cũng đổi thay, quang cảnh sinh hoạt gia đình cũng khác đi. Nhưng căn
bản vẫn là vợ chồng con cái sống chung dưới một mái nhà, thương yêu nhau, giúp đỡ
nhau. Đó là truyền thống của sinh hoạt xã hội con người. Từ Đông qua Tây, từ
Nam chí Bắc, đâu đâu con người cũng vẫn quí trọng gia đình. Muốn có gia đình phải qua ngả hôn nhân.
Người Hoa Kỳ tôn trọng hôn nhân. Việt
Nam chúng ta không những tôn trọng mà còn quí mến và thương yêu hôn nhân nữa.
Đó là mặt tình cảm, nhưng về lý trí, chúng
ta có thể nói, tôn trọng hôn nhân, không phải vì những qui định sẵn có của một
xã hội dân sự, mà vì nó là nền tảng vững chắc của mọi nền văn minh nhân loại. Vì
vậy trên thế giới và ở Hoa Kỳ hầu hết các tiểu bang và cả Liên Bang đều chấp nhận
hôn nhân là sự phối kết giữa một người Nam và một người Nữ.
Nhưng luật ấy hiện vẫn chưa đi đến chung
cuộc, còn phải chờ Tối Cao Pháp Viện nghe hai bên tranh luận về luật bảo vệ hôn
nhân của liên bang và đề nghị số 8 của California. Nếu
Tối Cao Pháp Viện đồng ý thì Tòa sẽ chấp nhận những luật này và tôn trọng quyền
lập pháp của công dân, sẽ trao cho những vị dân cử để làm ra những nguyên tắc và
điều lệ của luật hôn nhân. Đến đây, thiết nghĩ câu chuyện có cần phải mang ra tòa
xét sử hay không?
MỌI NGƯỜI ĐỀU BÌNH ĐẲNG VÀ TỰ DO
Tất cả mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật và các quyền dân sự như
quyền tự do phát biểu, tự do tôn giáo,
tự do lập hội và tất cả các tự do dân sự truyền thống khác cũng được bảo vệ một
cách đồng đều. Câu hỏi ở đây là có nên đặt ra “một quyền dân sự mới” như quyền để cho chính phủ và người dân chấp nhận sự kết hợp của những người đồng
tính luyến ái để tái định nghĩa hôn nhân hay không.
Nhưng xác nhận việc yêu đương của chúng
ta lại không phải là công việc của chính phủ hay nhà nước. Trái lại, nhà nước để
cho mình được tự do sống và tự do yêu, và coi đó là một chọn lựa của riêng mình.
Ngược lại, một số người nói là không có
chuyện phản đối hôn nhân đồng tính, vì nó chẳng có gì là lỗi luật cả. Nhiều nơi
tại 50 tiểu bang, hai người cùng phái có thể đồng ý sống chung với nhau, chọn một
cộng đồng tôn giáo chúc lành cho tình liên kết của họ và chọn nơi làm việc cho
phép hai người khai lợi tức chung.
Vấn đề là, chính phủ có công nhận sự kết
hợp đó như là hôn nhân không, và buộc mọi công dân, các cơ sở tôn giáo và thương
mại cũng phải làm như vậy. Thế rồi, những nguyên tắc và điều lệ của nó cũng sẽ áp
đặt lên những người khác và buộc họ phải công nhận, đồng ý sự phối hợp đồng phái
như là một hôn nhân hay sao!
Bình đẳng không có nghĩa là có quyền đòi
hỏi phải “tái định nghĩa” hôn nhân. Mỗi hôn nhân đều có những nguyên tắc của nó,
nói lên một số qui định cho cái tình liên đới ấy. Thực ra danh hiệu “bình đẳng
hôn nhân” chỉ là một khẩu hiệu của những nhà hoạt động đồng tính luyến ái và chính
trị gia, nhưng bình đẳng thực sự lại không cho phép bất cứ ai đưa ra những tiêu
chuẩn bắt người khác phải theo, buộc nhà nước phải viết ra cái quyền hôn nhân. Để
vấn đề được sáng tỏ, chúng ta cần phải hiểu rõ Hôn Nhân là gì? Tại sao những
nguyên tắc và điều lệ của Hôn Nhân lại là vấn đề?
Suy nghĩ kỹ về những câu hỏi đó, ta sẽ
thấy chẳng có gì là “bình đẳng” khi tái định nghĩa hôn nhân có mục đích là loại
bỏ những đặc tính bổ sung cuối cùng của hôn nhân là sinh con đẻ cái và giáo dục
chúng, một nền tảng cơ bản của hôn nhân từ ngàn xưa xuyên suốt chiều dài của lịch
sử loài người.
HÔN NHÂN LÀ GÌ?
Hôn nhân hiện diện khi có sự kết hợp với
nhau giữa một người nam và một người nữ như là chồng và vợ, để sinh con và trở
thành cha và mẹ. Hôn nhân đặt căn bản trên một sự kiện hiển nhiên về sinh học,
nghĩa là khả năng truyền giống, sinh con cái cần phải có người nam và người nữ.
Trên thực tế xã hội, con cái cần phải có cha có mẹ. Và nền khoa học phong phú
hay kinh nghiệm cho thấy con trẻ sẽ hoàn hảo và trở thành những công dân tốt
khi mà chúng có cha có mẹ và được cha mẹ dưỡng dục dạy dỗ đàng hoàng.
Hôn nhân có mục đích là truyền đạt mục
đích riêng của mình cho đời, cho xã hội và quốc gia. Chính phủ/nhà nước chấp nhận
hôn nhân bởi vì nhà nước làm việc vì công ích. Hôn nhân là phương tiện ít giới
hạn nhất để bào đảm hạnh phúc và thịnh vượng của những công dân tương lai. Nhà
nước chấp nhận hôn nhân tức là muốn bảo vệ con trẻ bằng cách khuyến khích người
lớn cam kết với nhau và với con cái một cách thường xuyên và quyết liệt.
Như là vấn đề nguyên tắc và điều lệ
chung, tiếng nói của tôn giáo về hôn nhân cần phải được chính quyền lắng nghe và
hoan nghênh trước công chúng. Thật khôi hài khi đòi hỏi tôn giáo phải có tiếng
nói ở tòa án để chứng minh, biện luận cho mọi người hiểu rằng hôn nhân -một định
chế tự nhiên đã có từ ngàn đời- là sự phối hợp giữa người nam và người nữ.
Điều này đã quá rõ ràng, đã được chia
sẻ và đồng thuận bởi các tôn giáo truyền thống như Do Thái giáo, Kito giáo, Hồi
giáo và cả Phật giáo; bởi những nhà tư tưởng cội rễ La Mã và Hy Lạp cổ thời không
có liên hệ gì tới những tôn giáo này; bởi nhiều triết gia của thời đai văn minh
ngày nay. Nó đã được công nhận bởi cả luật công và luật dân sự, cổ luật Hy Lạp
và La Mã.
Bây giờ đặt ra vấn đề vì có sự chống đối
kết hợp đồng phái là chuyện xa vời vớ vẩn. Hôn nhân thì ai cũng biết là đã từng
xẩy ra ở mọi không gian và thời gian, khắp mọi nơi từ nhiều thế kỷ nay trong
khi hôn nhân đồng tính thì chẳng ai thèm để ý hoặc nhắc tới. Thực vậy, hôn nhân
đã có ở những nền văn hoá mà người ta chẳng có một ý niệm gì về khuynh hướng sắc
dục, và có nơi, người ta lại hoàn toàn chấp nhận đồng tính luyến ái và coi nó
như là chuyện tự nhiên, không cần thắc mắc.
Trong những năm gần đây, hôn nhân bị
coi thường và trở thành thứ yếu do quan niệm của những người chủ trương xét lại.
Họ đặt nặng vấn đề ước muốn của người lớn hơn là những nhu cầu của con trẻ. Ở các
nước Tây Phương và Hoa Kỳ, người ta có khuynh hướng cho rằng hôn nhân đơn giản
chỉ là một loại tổ hợp do sự đồng ý của những người lớn -có thể là hai người,
ba người hay 10 người hoặc tùy thích- xum họp lại để thỏa mãn nhu cầu sắc dục
hay vui chơi, hoàn toàn sắc dục hay tự do, nhất thời hay thường xuyên.
Một khi hôn nhân đã mất hết ý nghĩa thực
của nó như vậy, để được nhà nước và dân chúng công nhận, người ta phải cố gắng
tái định nghĩa hôn nhân. Nhưng việc đó có cần thiết không?
TÁI ĐỊNH NGHĨA HÔN NHÂN CÓ CẦN KHÔNG?
Tái định nghĩa hôn nhân để loại bỏ lý tưởng
căn bản của sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ tức là làm cho “ước muốn khoái cảm nhục dục” trở thành yếu tố duy nhất của hôn nhân, loại bỏ ra ngoài những
liên hệ khác của hôn nhân. Tái định nghĩa hôn nhân tức sẽ đưa một nguyên tắc mới vào luật, luật của loại hôn nhân là bất cứ một
ràng buộc tình cảm nào được chính phủ đồng ý và chấp nhận và nói nó như vậy thì
nó phải vậy!
Chẳng có lý lẽ hoặc nguyên tắc nào có
thể chứng minh tại sao một kết hợp tình cảm lại phải là thường xuyên, giới hạn chỉ
giữa hai người, hay có thể mở rộng cho nhiều người. Hai người có thể sống chung
với nhau trong những điều kiện bình thường do tính tình hoặc sợ thích hợp nhau,
nhưng chẳng có nguyên tắc, lý do nào lại có quyền buộc họ phải làm như thế cả.
Hôn nhân không thể đơn thuần làm công
việc mà xã hội muốn nó làm cho những thế hệ tương lai nếu chúng ta làm cho những
điều kiện bình thường ấy trở thành thứ yếu. Tất cả mọi người chúng ta nếu muốn
cho một xã hội dân sự tốt đẹp hơn với những cơ chế khả dĩ có thể giới hạn quyền
lực hoặc ngăn chặn được sự lộng hành của nhà nước thì phải để ý đến chuyện đó.
Yểm trợ hôn nhân giữa một người nam và
một người nữ là bắt buộc đối với những ai có tâm hồn chống lại sự hấp dẫn đồng
tính, hay những người không biết đến những nhu cầu của những người chưa bao giờ
lập gia đình, hay vì bất cứ một lý do nào khác. Họ không phải là những người kém
giá trị hơn những người biết quan tâm và tôn trọng hôn nhân.
Chúng ta có thể làm ra những nguyên tắc
và điều lệ sinh phúc lợi cho tất cả mọi công dân mà không cần phải tái định nghĩa
Hôn Nhân. Việc đó quá dễ
dàng như uống nước đường vậy.
Quan tâm đến công ích đòi hỏi phải bảo
vệ và làm cho văn hóa hôn nhân thêm vững mạnh bằng cách quảng bá sự thật về hôn
nhân. Nó đòi hỏi một hôn nhân đúng cách
và chính nghĩa.
Trong khi tôn trọng tự do của mọi người,
chính quyền cần phải nhận thức hôn nhân một cách chính đáng, nâng đỡ, khuyến khích
và bảo vệ hôn nhân giữa một người nam và một người nữ như là một định chế lý tưởng
vì tình yêu có khả năng sinh sản, sinh con đẻ cái nối dõi tông đường, làm phong
phú và hưng phấn cộng đồng, xã hội, quốc gia.
Chấp nhận con người sinh ra đã bình đẳng
thì không cần phải đòi hỏi con người hiểu biết về một thực trạng lịch sử đã có
từ ngàn đời ấy.
Bạn có thể sống chung với một người đồng
phái như là vợ chồng, không ai có quyền ngăn cấm bạn, vì đó là tự do của bạn.
Nhưng bạn bắt buộc người khác, một tổ chức hay tôn giáo phải công nhận cuộc sống
ấy của bạn là không được, vì bạn đã xâm phạm đến tự do của người khác rồi.
Do đó, không cần phải tái định nghĩa hôn
nhân.
Fleming Island, Florida
March 29, 2013
NTC