CHÚA NHẬT XIII-C
THƯỜNG NIÊN
1V 19:16b, 19-21; Gl 5:1,13-18; Lc 9:51-62
Bác sĩ Nguyễn
Tiến Cảnh, MD
Trong câu mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (Lc
9:51-62), Luca đã cho biết rõ ràng là Chúa Giêsu sẽ tới Jerusalem, một địa danh
đã được báo trước trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước. Và Chúa Giesu sẽ chịu chết tại
đó.
Không nghi ngờ gì nữa, chúa Giêsu đã nói
với chúng ta về nghĩa vụ của người môn đệ theo Chúa. Trên đường đi, Chúa cũng
đã kêu gọi tất cả những người muốn đi theo Chúa. Nhưng mỗi người
có đáp ứng khác
nhau. Người thì từ chối, như dân làng Samarita, vì không tin tưởng kẻ đưa tin. Người
thì đồng ý theo Chúa nhưng lại không nhận biết ra được những điều kiện phải có để theo
Chúa.
Làm môn đệ là phải cam kết từ bỏ hoàn
toàn tất cả những gì là riêng tư của mình. Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng
theo Chúa là bắt đầu con đường thập giá.
CÂU CHUYỆN HÀNH TRÌNH CỦA LUCA
Câu chuyện hành trình
Luca kể dựa trên
Marco 10:1-52, nhưng chỉ dùng ở đoạn Lc 18:15-19-27. Trước đó, Luca đã góp nhặt
những chuyện đặc biệt nói về Chúa Giêsu lấy ra từ nguồn “Q”
(mà Mathiêu cũng dùng) và từ những thánh truyền đặc biệt khác mà ông biết.
Phần lớn tài liệu về cuộc hành trình mà Luca kể là những giảng huấn mà Chúa
Giesu đã ban cho các
môn đệ. Trong suốt cuộc di hành này, Chúa Giêsu đã chuẩn bị chọn tại Galilee
những nhân chứng cho Chúa mà họ có trách nhiệm phải làm sau cuộc xuất hành này của Chúa (Lc 9:31). Họ phải là nhân
chứng cho Chúa trước muôn dân (Cv 10:39; 13:31). Do đó đọc Luca phải hiểu là
mình đang nghe chính Chúa Giesu nói những lời giảng huấn này (Lc1:1-4).
Giống như khi bắt đầu sứ vụ ở Galilee,
Chúa bị dân tỉnh nhà từ chối, thì nay trong câu chuyện Luca kể Chúa cũng bị dân
làng Samarita từ chối (Lc 9:51-55). Nhưng lần này Chúa Giêsu đã không để ý đến
thái độ các môn đệ muốn phạt những kẻ từ chối lời kêu gọi của Chúa. Câu chuyện
này cũng tương tự như câu chuyện trong sách Các Vua 2 (2V 1:10,12), tiên tri Elijah đã lấy lửa trời đốt quân lính,
một việc mà Chúa không làm. Như vậy là Chúa đã không hành động giống như
Elijah.
Bổn phận người môn đệ là phải cam kết
với Chúa với hết cả tâm trí và thân xác. Tinh thần phục vụ dân Chúa phải thật
quảng đại. Đòi hỏi này rất nặng nề, như Chúa Giêsu đã xác định rõ ràng: “Ai
đã đưa tay cầm cày mà còn ngoái cổ lại phía sau thì không xứng đáng với
Nước Thiên Chúa.” (Lc
9:62)
Vào thời Chúa Giêsu, cũng như ở Việt Nam, ai cũng biết hình ảnh nhà nông này.
Người cày ruộng phải luôn luôn nhìn thẳng về phía trước để đường cày được ngay
ngắn, nếu không ruộng lúa sẽ bị đảo lộn lung tung gây khó khăn cho thợ vào mùa gặt
lúa. Những đòi hỏi đó quả là gay gắt và vô lý như “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết!” Làm sao kẻ
chết có thể tự mình chôn mình,
nhưng là một cách nói nhấn mạnh. Không hối tiếc quá khứ
nhưng phải nhìn vào tương lai. Chúng ta sẽ có nhiều ân sủng, nhiều may mắn nơi
cánh đồng mùa xuân mới được cày bừa tốt. Cuộc sống của chúng ta sẽ tràn đầy hứa hẹn về một mùa
gặt sung mãn.
Luca dùng hình ảnh cuộc hành trình để nói về con đường mà
người Kito hữu phải đi. Nó là con đường mà chúa Giêsu đã đi, cũng bị hiểu lầm
và từ chối nên đòi hỏi phải có sức mạnh, nghị
lực và hy sinh.
Để là môn đệ Chúa cần phải cam kết thực
sự và hoàn toàn về mọi mặt. Không nhà không cửa, tức vô gia cư, có nghĩa là chẳng thuộc về
chỗ nào cả, không gắn bó sống chết với những điều không cần thiết. Thuộc về Chúa Giêsu là phải vượt lên
trên tất cả những bó buộc trần thế cả về danh và lợi. Cuộc hành trình phải đi đến kết thúc và mang lại kết quả tối hậu. Để được Chúa gọi làm
môn đệ không cần phải toàn hảo theo nghĩa trần thế. Elijah, Elisha, những ngôn sứ của
Israel, những ông thuyền chài ở Galilee và những người thu thuế mà Chúa Giêsu đã
gọi chưa chắc đã có nhiều đức tính tốt hay tài năng xuất chúng có thể làm được những điều đặc biệt hơn người.
Thánh Phaolo nói Chúa Giêsu đã gọi những “kẻ khùng” mà người khôn ngoan đã phải
xấu hổ (1Cr 1:27). Tình nghĩa môn đệ với Chúa Giêsu không chỉ là ở với Chúa tại
Bethlehem, Nazareth, Bethany, Bethsaida, Capernaum hay trên đỉnh núi Tabor mà
còn hơn thế nữa, phải sống, phải cảm nhận, động lòng trắc ẩn nỗi niềm đắng cay
sầu khổ cùng Chúa Giesu Kito tại Jerusalem, vườn Gethsemane và trên đồi Calvary.
NHIỆM
VỤ CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA KITO
Qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu đã đặc biệt nhấn mạnh đến sự quan trọng và vô
điều kiện của nhiệm vụ người môn đệ Chúa Kito
(cc 57-62). Ngay cả những ràng buộc gia đình hay tình nghĩa cha con, chôn cất
người chết cũng không quan trọng bằng nghĩa vụ tuyên xưng nước trời của người
môn đệ.
Không thể có đáp trả nửa vời, Tin Mừng
đòi hỏi hoặc tất cả hoặc chẳng có gì cả. Các môn đệ tuyên bố một sứ điệp tối
hậu về Thiên Chúa, “…’Vương quốc Thiên Chúa đã đến gần các ông’” (Lc
10:9). Như là dấu hiệu toàn thắng ma quỉ, các môn đệ có một sức mạnh phi thường
chứng tỏ quyền năng đáng sợ của Thiên Chúa. Họ phải vui mừng, dù Thiên Chúa
không ban quyền năng cho họ hay sứ điệp của họ không đạt kết quả mong muốn: Vui
mừng vì Thiên Chúa đã hứa ban cho họ sự sống.
Chúng ta là môn đệ của thời nay. Qui
luật của chúng ta thì giống nhau, nghĩa là chứng tỏ tình yêu Chúa bằng lời
nói và việc làm. Ngoài ra, hơn thế nữa, chúng ta phải vui mừng vì Chúa đã
gọi chúng ta và ban cho chúng ta sự sống dồi dào như vậy.
HÃY
HÀNH HƯƠNG VỀ JERUSALEM
Bài Tin Mừng hôm nay cũng mời gọi chúng
ta suy niệm về cuộc hành trình với chúa Giêsu trong chính phần đất của Người. Đi
lên thị trấn thánh Jerusalem, không chỉ bằng cuộc sống Kito hữu như là môn đệ,
mà còn như kẻ hành hương trong lịch sử. Bắt đầu hôm nay và tiếp tục tuần sau
chúng ta sẽ cùng nhau suy gẫm về ý nghĩa những cuộc hành hương còn gọi là cuộc
di hành thánh.
Hiện tượng “di hành thánh” đã được biết
đến từ trước Thời Đại Kito Giáo và còn trước cả truyền thống hành hương của
người Do Thái. Những cuộc di hành đạo đức luôn luôn liên hệ đến những “địa
danh thánh” hay “cung thánh”. Những địa danh này được coi là thánh
bởi vì nó đã chứng kiến một quyền lực tối cao mà sau này trở thành đối tượng để
thờ phượng. Ở thời cổ đại, người ta đi di hành cá nhân hay tập thể đến những
“đền thánh” là để thờ phượng, tỏ lòng tôn kính, ăn năn thống hối hay khấn hứa.
Ở ba thế kỷ đầu, người Kito hữu không
hành hương đất thánh, nếu chúng ta hiểu cuộc hành hương của họ như là cuộc di
hành thờ phượng. Ở thời Kito Giáo sơ khai, hình như người ta ngại đi hành
hương, căn bản là ở lý do chính trị và tôn giáo. Kito Giáo lúc đó không được
nhà nước chấp nhận, nên cuộc sống của người Kito hữu thực tế là cuộc sống hầm
trú trên hầu hết đế quốc La Mã, đã là lý do làm mọi người nản chí không muốn
biết đến và tôn kính những địa danh thánh.
Nhờ những bản văn của Justin Martyr, nhà
biện hộ Kito Giáo ở thế kỳ II, chúng ta biết là, mặc dù dân ngoại có những tập
tục rất phổ biến về cách chữa bệnh khi đi hành hương về cung thánh ở
Aesciepius, nhưng người Kito hữu đã không làm theo như vậy vì họ biết Chúa Kitô
là đấng duy nhất chữa lành bệnh cả thể xác lẫn linh hồn. Mặc dù những Kito hữu
đầu tiên đã có ít nhiều thái độ tiêu cực về những cuộc hành hương đất thánh,
chúng ta cũng biết được một số tin tức về những cuộc du hành lẻ tẻ. Tuy nhiên
những cuộc du hành này được coi là du hành nghiên cứu hơn là hành hương.
ĐI TÌM NHỮNG DẤU CHÂN XƯA
Người đầu tiên đi tìm những dấu chân xưa là Giám mục
Melto thành Sardis vào năm 160 AD. Ngài muốn thâu lượm những chi tiết về danh
xưng và các loại sách Cựu Ước. Một cuộc du hành nghiên cứu khác do Origen thực
hiện khi ông từ Alexandria đến Đất Thánh vào năm 23 AD. Trước khi định cư ở
Caesarea, ông quyết định truy cứu lại những “Dấu chân xưa của các ngôn sứ, của
Chúa Giêsu và các môn đệ.”
Có lẽ người hành hương đầu tiên hiểu
theo đúng nghĩa của nó là giám mục Alexander của Cappadocia (sau này là giám
mục Jerusalem) vào năm 216 A.D. đã tới Jerusalem để “cầu nguyện và nhận biết
những địa danh thánh.” Do đó ở ba thế kỷ đầu, ngoài một ít
trường hợp lẻ tẻ, chúng ta không thể nói là không có tập tục “Hành Hương” dù là
đi về Đất Thánh hay những địa danh khác.
Một đặc biệt nữa là sau năm 313, một
chuyển đổi rất rõ ràng là Kito Giáo được coi là tôn giáo chinh thức và hợp pháp
trên toàn đế quốc La Mã. Thời đại hoàng kim của Đất Thánh đã bắt đầu. Lộ trình
đi Đất Thánh đã gợi hứng cho tất cả những cuộc hành hương cầu nguyện khác. Hình
như ước vọng muốn cảm nghiệm được những địa danh kinh thánh đả làm lu mờ thái
độ e ngại trước kia về những cuộc hành hương. Thực ra, nhiều người đã vượt qua
được mọi khó khăn trở ngại và nguy hiểm một cách can đảm. Họ đã thực hiện những
cuộc hành hương về địa danh thánh quê hương của Chúa đầy thích thú.
Eusebius, sử gia Kito giáo ở thế kỷ IV
và là Giám mục Caesareo đã cho biết Helena, từ mẫu của hoàng đế La Mã là người
đầu tiên trở lại đạo, đã là người hành hương quí phái nhất trong số những người
hành hương đất thánh. Eusebius xác nhận là Constantine ước ao được rửa tội tại
sông Jordan giống như chúa Giêsu. Buồn thay, chúng ta không biết rõ là
ước vọng của hoàng đế có thực hiện được hay không, và ông ta có đến đất của
Kinh Thánh hay không. Hoàng đế Constantine và bà Helena mẹ ông đã giữ một vai
trò rất quan trọng trong đời sống và lịch sử của Đất Thánh của Thiên Chúa.
THEO CHÚA ĐI JERUSALEM TỚI
ĐỈNH ĐỒI GOLGOTHA
Là môn đệ chúa Giêsu thì phải cùng Chúa
di hành về Jerusalem tới đỉnh đồi Golgotha và đáp trả lời Chúa kêu gọi: Từ
bỏ tất cả mọi riêng tư cá nhân, danh quyền giàu sang và chấp nhận mọi khó khăn
hiểm nguy trong mọi cảnh huống, cho dù phải hy sinh tính mạng mình. “Ai
hy sinh mạng sống vì Ta thì sẽ lấy lại được Sự Sống.”
Fleming Island, Florida
June 24, 2022
NTC