CHÚA NHẬT 5A PHỤC
SINH
Cv 6:1-7; 1Pr 2:4-9;
Ga 14:1-12
Nguyễn Tiến Cảnh
Chúa Giesu đã nói “Ta
là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” Cách nói này đã diễn tả một cách rất vắn
gọn ý nghĩa thực của Đạo. Đi đúng “đường”, hiểu biết đúng “sự thật”
thì sẽ có “đời sống thực sự”. Hai bài đọc 1, 2 và bài Tin Mừng Phúc Âm
Gioan của Chúa Nhật này là những bổ túc cho ý nghĩa thâm sâu đầy súc tích ấy về
đạo.
Bài đọc 1 (Cv 6:1-7) nói về cuộc tranh luận giữa người Hellenist và người Do
Thái. Người Hellenists được kể như là dân Do Thái theo Kito giáo nói tiếng Hy Lạp,
người Do Thái thì nói tiếng Aramaic. Người Hellenists cảm thấy có sự khác biệt trong cách
đối sử ở những bữa ăn chung trong cộng đồng.
Sách Công vụ tông đồ trình
bày câu chuyện kêu gọi các môn đệ và truyền chức phó tế đầu tiên trong Giáo Hội.
Câu chuyện ngắn này nói về nỗi buồn phiền đã xẩy ra trong một Giáo Hội còn non
trẻ. Sách công vụ các tông đồ cho thấy Giáo Hội sơ khai lúc đó đã cố gắng xây dựng
đoàn kết trong đời sống cộng đồng và tình nghĩa môn đệ, để rồi vươn tới một
tình bác ái (x.Cv 2:42-47). Tuy nhiên ở đây có điều bất ổn vì một số người than
phiền là nhu cầu của họ không được đặc biệt để ý tới như những người khác. Nhất
là những thành viên nói tiếng Hy Lạp, là những góa phụ bị quên lãng “không được
phân phát thức ăn hàng ngày”. Niềm đau này đã có trong Giáo Hội dưới nhiều hình
thức. Người Hellenists thì có hai khác biệt rõ ràng về văn hóa và ngôn ngữ. Tình
trạng thiên kiến này đã xẩy ra ở Giáo Hội sơ khai tại Jerusalem rồi lan tới các
Giáo Hội truyền giáo ở những nơi khác.
Cũng cần phải để ý là
bảy người được chọn làm phó tế lúc đó đều là những người Hy Lạp. Họ là những
người Hellenists và phải phụ thuộc vào các tông đồ là những người giữ truyền thống
để được trao cho một phần quyền hành qua lời cầu nguyện và đặt tay trên họ. Sách
công vụ tông đồ thì nói rõ ràng về những trách nhiệm của các tông đồ: Họ là những
thừa tác viên có nhiệm vụ cầu nguyện và giảng Lời Chúa. Trách nhiệm của bảy người
phó tế được chọn này thì không rõ ràng nhưng coi như là để tham dự vào việc phục
vụ cho những nhu cầu của những người thường bị quên lãng, cụ thể là những góa phụ
là những người mà Thiên Chúa hứa phải bảo vệ và cần được giúp đỡ (x. Jeremiah
49:11). Thánh Luca cho thấy việc mở rộng quyền lãnh đạo của các tông đồ đã rất
thành công vì các tông đồ được rảnh rang để loan truyền Lời Chúa giúp cho Giáo
Hội tiếp tục lớn mạnh. Việc xung đột nội bộ này đã giúp cho Luca thấy được nhu
cầu cần phải mở rộng nhiều mục vụ khác nhau khi mà Giáo hội lớn mạnh và trưởng
thành.
Với bài đọc 2 (1Pr
2:4-9) thánh Phero đã dùng Kinh Thánh làm ẩn dụ để nói về cách xây dựng ngôi
nhà Giáo Hội được xây bằng những viên đá sống động là những giáo dân mà
nền nhà là một tảng đá lớn là Chúa Giesu.
Trong thư thứ nhất, thánh
Phero nói về một nhóm Kito hữu ở Tiểu Á bị hy sinh vào thời Neron và thị trấn Roma bị đốt cháy vào
năm 64 AD. Đây là một trong bảy thánh thư của các tông đồ -còn gọi là thư phổ quát-
nói về quyền bính của Phero để khuyến khích người Kito hữu nên kiên trì với hy
vọng cứu chuộc qua Chúa Kito dù cho bị thế gian chối bỏ và truy
nã đắng cay.
Với một ngôn từ sống
động, bức thư diễn tả sức mạnh cá nhân và niềm tin cộng đồng của những người đến
với Chúa Kito. Người Kito hữu được miêu tả như những “viên đá sống động”
xây thành ngôi nhà tâm linh mà nền nhà là Chúa Kito là một đá tảng.
Dù Chúa bị loài người chối bỏ nhưng Thiên Chúa Cha đã chọn Người. Với “đá tảng
sống động” này, đền thờ Giáo Hội sẽ vững chắc và không thể bị phá hủy. Theo
Isaiah 28:16, Chúa Kito chính là đá tảng của Giáo Hội, một loại
đá “quí báu đã được chọn.”
Do đó, niềm tin vào
Chúa Kito được coi như là một tặng phẩm có giá trị. Đối với những người không
có niềm tin, dĩ nhiên họ có lý khi từ chối tặng phẩm đó, bởi vì họ không có hay
không biết cách để nhận ra cái giá trị ấy. Lại nữa, theo tiên tri Isaiah, thì tảng
đá bị từ chối này đã trở thành vấn đề lớn đối với chính dân của Người. Chúa
Kito là Đá này“sẽ làm cho nhiều người sa ngã” đối với những ai không tin
(x. Isaiah 8:14). Không tin thì bị quở trách vì không vâng lời.
Sau cùng, kết luận của
bức thư nói lên giá trị của việc những
hòn đá sống động cùng nhau xây dựng. Người Kito hữu vui hưởng sự chọn lựa
của mình vì niềm tin của họ nơi Chúa Kito. Tuy nhiên, như trong sách Xuất Hành
(Exodus) mà Phero đã nêu ra, khi Thiên
Chúa chọn dân Israel làm “dân riêng của Người” thì Người cũng đặt họ vào hàng “tư
tế vương quốc hay một quốc gia thánh” (x, Xh 19:6). Chỉ định này cũng đi
theo với trách nhiệm. Khi bị truy tố tù đầy, người Kito hữu không được trốn
tránh và che dấu, nhưng phải tuyên xưng lời ngợi khen Thiên Chúa. Đến với Chúa
Kito là buộc phải từ chối bóng tối của vô minh, của không hiểu biết và tội lỗ, đồng
thời phải ngụp lặn trong “ánh sáng kỳ diệu của Chúa.”
Qua bài Tin Mừng Phúc
Âm hôm nay (Ga 14:1-12), Chúa Giêsu đã bảo đảm với các tông đồ là “Ta là
Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” Thiên Chúa Cha ở trong Người
và Người ở trong Chúa Cha. Ai tin vào Chúa Giêsu thì sống và hành sử theo cách
của Thiên Chúa.
Chương 14 của Tin Mừng
Gioan là một phần của bài nói chuyện của Chúa Giêsu với các tông đồ vào bữa tiệc
ly. Gioan cho thấy Chúa Giesu đã biết rất rõ về niềm tin của các tông đồ lúc đó
thì rất yếu khi mà họ phấn đấu để cố tìm ra một đường hướng phải theo khi Chúa
không còn ở với họ để hướng dẫn họ nữa. Chúa bảo các môn đệ đừng có sợ, là Người
ám chỉ đến cái chết và phục sinh của Người, ngay cả khi Người
trở lại. Vào thời Gioan viết Tin Mừng của
ông thì sự hiểu biết về việc Chúa Giêsu trở lại lần thứ hai không có thay đổi nhiều
kể từ lúc một vương quốc đầy quyền uy được thiết lập cho đến khi mọi người đều tin
vào việc Chúa Kito sẽ trở lại để tụ họp tất cả những ai tin vào Người. Vì lý do
đó mà Chúa Giêsu đã nói về việc phải chuẩn bị trước “nhiều chỗ ở” cho tất
cả mọi người đang chờ mong ngày giờ Chúa trở lại.
Để trả lời việc Chúa
nói về sự ra đi của Người, ông Toma đã nói lên những lo lắng và ưu tư chính của
tất cả các môn đệ là “Chúng con không biết Thầy sẽ đi đâu.” Chúa Giêsu
đã trả lời:“Ta là đường, là sự thật và là sự sống.” Người Kito hữu
cũng được gọi là“đường” (Cv 9:2). Những từ “sự thật” và “sự sống” cũng được hiểu là đường.
Rất đơn giản, theo Tin Mừng Gioan, có niềm tin là có suối nguồn của sự thật và
sự sống. Đôi lúc niềm tin của người Kito hữu bị lung lay và suy giảm là vì Chúa
Giêsu chưa trở lại. Cách Chúa tự diễn tả về mình là có ý giúp cho niềm tin đó của
họ được vững mạnh.
Chúa Giesu nói: đi
sát và hành sử theo cách của Người là con đường duy nhất để mọi người có thể đến
được với Thiên Chúa. Tuy nhiên các môn đệ vẫn còn bối rối và ưu tư chưa thỏa
mãn vì chính mắt họ vẫn không “nhìn thấy” được Thiên Chúa. Khi Phillip đặt vấn
đề này ra thì Chúa Giesu bèn quở trách tất cả các ông là đã không nhìn ra và chẳng
hiểu gì cả về sự thiết thân giữa Chúa và Cha Người. Sự thân mật này đã được nói
đến xuyên suốt trong Tin Mừng Gioan, bắt đầu ngay ở lời mở đầu nói về Kito học,
diễn tả Chúa Giêsu là LỜI ở cùng Thiên Chúa từ trước khi có trời đất vũ trụ (x.Ga
1:1). Đối với những ai đọc Gioan mà không thể nhìn thấy Chúa Giesu bằng xương bằng
thịt thì phải dựa vào niềm tin của mình và hoàn thành những việc lớn lao vì danh
Người thì đã là những dấu chỉ đủ để biết Con Người và Cha Người là một. Những
ai đã nhìn thấy Chúa bằng con mắt niềm tin thì cũng nhìn thấy “đường,
sự thật và sự sống.” Thị kiến này còn vĩ đại hơn bất cứ một một cái gì có
được do nhận thức, ý thức hay cảm thấy của một người thường trần tục.
Fleming Island, Florida
May 6, 2023
NTC