QUÀ TẶNG TIN MỪNG:
Chúa Nhật 3A Phục Sinh
Cv 2:14, 22-33;
1Pr 1:17-21; Lc 24:13-35
Bác
sĩ NGUYỄN TIẾN CẢNH, MD.
Kính mời theo
dõi video tại đây:
https://bit.ly/41WFOCH
Câu chuyện Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết đã ngã ngũ mà có người vẫn còn hồ nghi, trong đó lại là hai
môn đệ của Chúa. Họ rong ruổi trên đường đi Emmaus. Để làm gì? Không ai biết. Làng
Emmaus ở đâu? Không thấy có trên bản đồ. Tất cả chỉ là mơ hồ, nghi ngờ và hoang
mang. Nhưng chính sự nghi ngờ này đã được Chúa dẫn
đưa đến tin tưởng là do Cử chỉ Bẻ bánh rồi chia sẻ cho
các ông của Chúa Giesu.
Chúa Nhật
này Phụng vụ đưa ra hai bài đọc và bài Tin
Mừng Luca miêu tả
con đường Emmaus, đường đưa tới niềm tin, trọng tâm của của vấn đề. Tất cả ba
bài đều liên hợp và bổ túc cho nhau. Chúa sống lại và ơn cứu độ loài người. Để
cho chúng ta cũng được sống lại vào ngày sau cùng.
Bài đọc 1 (Cv 2:14, 22-33) là một đoạn dài của bài giảng mà người
ta cho là của thánh Phero nằm trong sách Công Vụ Tông Đồ. Khung cảnh là
Jerusalem vào ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái cử hành đúng 50 ngày sau Lễ Vượt
Qua, cũng gọi là ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ. Nguyên thủy
là ngày lễ mùa gặt, nhưng vào thế kỷ I, nó bao gồm kỷ niệm mừng ngày ban hành
luật trên núi Sinai. Lễ Ngũ Tuần còn là một
trong ba cuộc lễ hành hương của Do Thái Giáo thời sơ khai, hai lễ kia là lễ Vượt
Qua và lễ Nhà Tạm.
Luca, tác giả của sách Công Vụ Tông Đồ ghi nhận thị trấn
lúc đó tràn ngập “dân Do Thái mộ đạo đến từ mọi quốc gia” (Cv 2:5), và khi họ
nghe thấy tiếng động của Chúa Thánh Thần đổ xuống trên các môn đệ của Chúa
Giesu lúc đó đang tụ họp tại đây. Họ muốn biết điều gì đang xảy ra như vậy. Gió và lửa từ trời chắc chắn đã thu hút họ,
nhưng họ bấn loạn hoang mang về một sự thật là mọi
người trong đám đông của họ đều hiểu được những điều các môn đệ nói với họ theo
ngôn ngữ của họ. Nhưng những người
khác thì chế nhạo họ cho là họ cuồng loạn vì say sưa.
Dó đó trong phần đầu của bài giảng, thánh Phero đã trình
bày để bảo vệ các bạn đồng hành của ông. Ông nói rằng họ chẳng có say sưa gì cả vì lúc đó là buổi
sáng sớm. Ngoài ra ông còn cắt nghĩa điều kiện của họ lúc đó có thể được hiểu
theo nghĩa sấm của tiên tri Joel mà Phêro đã trích dẫn: “Trong những ngày đó Ta sẽ đổ Thần Khí Ta cả trên tôi tớ nam nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ. Ta cũng sẽ cho xuất hiện những điềm thiêng
trên trời cao và những dấu lạ dưới đất thấp, đó là máu lửa và những cột khói.....Và
bấy giờ tất cả những ai kêu cầu Danh Chúa sẽ được
cứu độ” (Cv 2:18-19, 21 / Joel 3:1-5).
Nhưng bài đọc này chú trọng đến phần hai của bài giảng của
thánh Phero. Bài giảng bắt đầu
bằng một trong những tuyên cáo. Vắn gọn là tuyên xung sơ khởi Tin Mừng về Chúa
Giesu Kito đã được thấy trải dài trong Sách Công Vụ Các Tông Đồ (Như Cv
3:12-26; 4:8-12; 5:29-32; 10:34-43; 13:16-41). Những việc này luôn luôn khởi đầu
bằng một xác quyết về lời nói và việc làm của Chúa Giêsu theo sau tuyên xưng về
cái chết và sống lại của Ngài.
Những tuyên cáo này trong sách Công
Vụ Tông Đồ
đã trực tiếp nhắm vào khán thính giả Do Thái với lời khuyên nhủ tha thứ tội lỗi.
Đôi lúc cũng đượm vẻ tố cáo nhưng sơ khởi vẫn là
những biến cố được nói trong tuyên cáo là mọi sự đều ở trong quyền năng của
Thiên Chúa và phải nằm trong kế hoạch cứu chuộc loài người của Chúa.
Trong phần kết thúc của bài giảng, Luca lại chủ ý nhắm
vào David vì ông tin rằng David chính là tác giả của những ca vịnh, đặc biệt ca
vịnh này. Tuy nhiên câu chuyện lịch sử khá phức tạp của ngày hôm nay có thể được
coi như những thánh vịnh. Luca đã xác quyết David là một ngôn sứ nói về danh
Chúa Giêsu khi ông làm nên thánh vịnh 16:8-10 và ông ta coi những vần thơ này như để chứng minh Chúa Giêsu đã sống lại
để hoàn thành lời hứa với ông là Thiên Chúa sẽ làm cho một người trong dòng dõi Ngài trở thành Vua dân Do
Thái và cai trị đến muôn đời (xem thêm Samuel 7:12-17). Do đó Phero
cũng trích dẫn thánh vịnh 110:1 nói rằng Chúa Giêsu đã chịu đóng đanh, là Vua Thiên Sai, đấng đang hiển trị
vinh quang trên ngai Thiên Chúa.
Bài đọc 2 (1Pr 1:17-21) được lấy ra từ thư thứ nhất của thánh
Phero. Bài này rất có thể cũng không phải của Phero mà do một vị ẩn danh nào đó
viết vào năm 79-80 AD. Ông này muốn truyền lại ký ức và giảng huấn của Phero
cho những thế hệ tương lai. Dù gọi là thư nhưng đọc lên nghe giống như một bài
giảng về phép Thanh Tẩy và cách sống của người Kito hữu hoặc như một lời khuyên
hãy trở nên thánh thiện.
Trước khi đi vào bài đọc, chúng ta thấy có những xác định
về người tín hữu Kito Giáo phải vui hưởng một đời
sống mới ra sao khi sống trong niềm hy vọng Chúa Kito Phục Sinh, và Thiên Chúa
che chở họ thế nào, trong khi gìn giữ họ trong niềm tin để họ có được ơn cứu độ. Tác giả của bức thư tiếp tục nói trực tiếp với
khán thính giả của mình, biết rằng họ sẽ phải chịu đau khổ khi niềm tin của họ
bị thử thách, nhưng cuối cùng họ sẽ được vui hưởng
sung sướng vì có Chúa Giêsu Kito là đấng cứu chuộc họ.
Đi vào nội dung bài đọc, chúng ta được nhắc nhở đến tình
liên hệ thiết thân của Thiên Chúa với chúng ta. Ngài là Cha tuyệt hảo và toàn mỹ đúng nghĩa của nó. Đây là một
Thiên Chúa phán xét rất công minh nhưng đầy tình thương xót. Do đó Ngài
phải đáng được kính trọng (reverence). Tiếng Hy Lạp là Photos được
chuyển dịch qua thiếng Anh là “reverence” có nghĩa là “sợ (fear) hay
kinh sợ (awe)”. Nhưng “sợ Thiên Chúa” không nói lên được ý nghĩa thực
của nó đối với những độc giả thời nay. Vậy “Kinh Sợ” có lẽ là từ hay hơn
chăng. Hãy thử đọc bài đọc này với từ Kinh Sợ Thiên Chúa thay cho từ kính trọng
Thiên Chúa. Chúng ta phải sống sao để vượt thoát ra khỏi sự kinh sợ Thiên Chúa
của chúng ta là Đấng liên kết thân thiết
nhất với cuộc sống của chúng ta đúng như cung cách người cha đối xử rất thương yêu và sống
chết với con cái vậy.
Để mở rộng ý niệm về từ kinh sợ hay kính trọng đối
với Thiên Chúa, tác giả thư 1Phero muốn chúng ta hiểu và biết rằng chúng
ta được chuộc lại bởi “chính máu châu báu của Chúa Giesu Kito” để
thoát ra khỏi cách sống cũ của chúng ta từ muôn thế hệ trước. Sự chuộc lại
này đã phải trả bằng giá rất lớn với sự đồng ý cho kẻ tội lỗi thoát khỏi cảnh tù đày. Tiếng Hy Lạp là timios,
chuyển dịch thành “quí giá” cũng có nghĩa là “được giữ sống trong
danh dự, được kính trọng hay yêu quí một cách đặc biệt, bởi vì đó là máu của Chiên Hy Tế lễ vượt qua đã đổ ra để
cứu chuộc chúng ta. Kết hợp với niềm
tin cũ, máu là sức sống của mọi sinh vật, nó không phải là vấn đề nhỏ bé và
bình thường ít quan trọng có thể cho đi cho chúng ta. Ngoài ra nó còn là một phần
của kế hoạch của Thiên Chúa từ thuở ban đầu để cho “niềm
tin và hy vọng của chúng ta có được nơi Thiên Chúa.” Chúng ta đứng vững trong niềm tin kinh sợ ấy!
Bài Tin Mừng Phúc Âm
Luca (Lc 24:13-35) hôm nay kể lại câu chuyên hai môn đệ Chúa
trên đường đi Emmaus. Khi Luca kể câu chuyện này thì biến cố Chúa Giêsu sống lại
cũng xảy ra cùng một
ngày. Chúng ta nhận thấy hai môn đệ Chúa Giêsu đã cùng nhau bàn bạc không ngừng
nghỉ trên đường họ đi Emmaus, cách Jerusalem khoảng bảy dặm. Người kể chuyện ghi chú rằng họ tỏ ra rất buồn phiền và tinh thần
thì rất sa sút. Bỗng chốc Chúa sống lại xuất hiện với họ giữa đường mà họ không
hề nhận biết.
Khi trực tiếp hội thoại, cùng bàn luận với hai ông, Chúa
cũng nói với họ về câu chuyện thời sự đặc biệt vừa xẩy ra ở Jerusalem. Các ông
đáp trả lời Chúa cũng chỉ như một câu chuyện bình thường về tôn giáo mà không hề
nói về bất cứ điều gì liên quan đến việc Chúa sống lại. Nó chẳng ăn khớp gì với
những việc sẽ xảy ra sau này là
tin Chúa sống lại đã được công bố và báo cho họ biết vào ngày hôm trước. Thực vậy, việc
Chúa phục sinh đã hiện diện ngay trước mắt họ mà
họ hoàn toàn không hay biết, khiến
họ thành như những kẻ điên rồ, chậm hiểu về những điều mà Kinh Thánh đã nói là
Chúa Giêsu cần phải chịu đau khổ rồi vinh hiển. Chúng ta không biết thánh Luca
có trong đầu bản văn nào, nhưng điều quan trọng hơn cả là sứ điệp Chúa Giêsu chết và sống lại tất cả đều nằm trong
kế hoạch của Thiên Chúa ngay từ thuở khởi đầu.
Diễn biến quang cảnh câu chuyện đã cho chúng ta biết: mắt và lòng trí của hai môn đệ này sau cùng đã mở ra thế
nào và tại sao. Đến gần Emmaus họ mời Chúa Giêsu ở lại với họ, vì đêm đã đến,
trời đã tối, phập phòng nỗi sợ Chúa mình đã chết. Làm sao đây?
Thế rồi vào bữa ăn chiều, Chúa
Giêsu chúc phúc, bẻ bánh và chia cho các ông với một cử chỉ giống y như Chúa đã
làm vào bữa tiệc ly trước khi Chúa chịu chết. Họ mở mắt, bừng trí, nhớ lại và nhận ra Chúa Giesu của mình chính
là người đã đồng hành với các ông trên đường đi Emmaus vừa mới đây. Họ cũng nhớ
lại và cảm thấy thế nào khi Chúa giảng dạy cho các ông trên hành trình Emmaus,
và lòng trí họ bừng cháy lên lửa tin yêu, thân xác họ mạnh mẽ trở lại. Cuối cùng khi Chúa bẻ bánh thì hành trình của họ cũng được
hoàn thành. Hành trình Emmaus của các ông đã đi từ chỗ không tin gì cả đến chỗ
hoàn toàn tin cậy. Đúng vậy,
chắc chắn đây hẳn là lý do của một niềm vui vĩ đại. Làng Emmaus là đây, đã là
hiện thực trên bản đồ, có vị trí rõ ràng, là niềm tin Chúa phục sinh. Tất cả đã
rõ ràng. Không còn hồ nghi áy náy bâng khuâng nữa. Chúng
tôi tin Chúa đã sống lại từ cõi chết, để cho chúng
tôi cũng sẽ được sống lại vào ngày
sau cùng.
Fleming
Island, Florida
April 21,
2023
NTC - Hẹn
gặp lại