Ds 6:22-27; Gl 4:4-7; Lc
2:16-21
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh,
MD
Kính mừng Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ
có tội, khi nay và trong giờ lâm tử
Hoặc:
Hôm nay một tia sáng
sẽ chiếu rọi trên chúng ta, vì Chúa đã sinh ra cho chúng ta. Và Người sẽ đuọc gọi
là Thiên Chúa kỳ diệu, Hoàng Tử của Hòa Bình, Cha của mọi thời đại tương lai,
và nước Ngài sẽ không bao giờ tận. (Is
9:1, 5; Lc 1:33)
Bài đọc 1: Ds 6:22-27
Aaron và dân Israel cầu nguyện và Thiên Chúa sẽ đáp ứng lời nguyện của họ và chúc phúc
cho họ.
Là một trong số những lời
khuyên của Chúa với Maisen về việc thiết lập Nhà Tạm theo sách Xuất Hành,
chương 28 và 29 là để dành cho các tư tế làm việc thờ phượng và trang điểm những
y phục biểu hiệu của tư tế là “thánh thiêng Thiên Chúa” (Xh 28:36). Các thầy cả
Levi dâng của lễ sống hàng ngày để chứng tỏ lòng trung thành của Israel với
giao ước. Điều không đuọc rõ ràng trong sách Xuất Hành là các tư tế có liên hệ
với những người bạn Israel như thế nào. Sách Dân Số thì nói chi tiết rõ là
Israel khởi đầu ở Đất Hứa, bổn phận của các tư tế là đối với dân chúng. Họ phải
chúc phúc cho dân.
Chúc phúc từ lâu đã là một
phần của truyền thống Israel, như là lễ Vượt Qua hàng năm, cũng như giữ luật
ngày Sabath, kêu danh Chúa để được chúc phúc. Tuy nhiên trong đoạn này (Dân Số)
bổn phận của người chúc phúc lại dành cho các tư tế, những người thược hàng con
cháu của Aaron. Do đó, chúng ta có thể thấy là chức tư tế đã được chuyển từ bổn
phận thi hành hy lễ hàng ngày đến chỗ làm cho tình liên hệ của Thiên Chúa với
dân chúng được mạnh mẽ bằng cách nhắc nhở dân là Thiên Chúa để ý dến họ và săn
sóc họ nhiều thế nào.
Vì vậy, nguyện cầu chúc
phúc này liên hệ đến thanh danh Chúa trên người thường ba lần, như dân chúng đã
học hỏi: Thứ nhất hãy giữ làm của riêng cho mình. Thứ hai, cảm nghiệm dung nhan
Thiên Chúa duyên dáng đang chiếu rọi trên loài người. Thứ ba, hãy nhận tặng phẩn
lòng nhân từ và bằng an của Chúa. Sự thân thiết cận kề của Chúa với dân Người
được nêu ra qua ba lời kêu gọi này. Nhưng đặc biệt là điều hai, vì Maisen đã
nhìn thấy dung nhan Chúa biến hình đời đời.
Dân chúng không được nhìn mặt Chúa nhưng họ chắc chắn có thể tưởng tuọng dung
nhan Chúa tỏa sáng. Ân huệ Thiên Chúa sẽ được ban cho tất cả những ai kêu đến
danh Người.
Bài đọc 2: Gl 4:4-7
Thiên Chúa đã sai
Chúa Giesu, -con một của Người, sinh ra bởi Maria- để giải thoát mọi người khỏi
tội lỗi và cảnh nô lệ của lề luật. Vì Thiên Chúa đã chọn chúng ta làm người thừa
kế nước trời.
Qua bài đọc này,
thánh Phaolo đã nối kết các tín hữu Galat trực tiếp với Chúa Giesu. Ngài cũng làm tương tự như ở bài đọc 1 bởi ba câu bắt đầu với
tiếng “Khi”, “Để” và “Vậy”. Trong một thứ tự ngắn, ngài đã lý luận để rồi kết
luận. Kết luận là chúng ta không còn là nô lệ nhưng là con và là thừa kế của
Thiên Chúa. Điều này là thực sự và có căn nguyên nguồn gốc.
Trong chương 4 thư gửi tín
hữu Galat, thánh Phaolo đã bàn luận thế nào là người thừa kế của Thiên Chúa.
Ngài nói khi con trẻ chưa trưởng thành và đủ tuổi thì kể như là nô lệ, nhưng
khi đã đúng tuổi thì con người đó được tư do để thừa hưởng tất cả những gì đã
được hứa. Thánh Phaolo gợi ý là lúc đó những ai được con Thiên Chúa mạc khải
qua quyền lực của Chúa Thánh Thần thì không còn coi là nô lệ nữa. Họ sẽ tự do được thừa hưởng những gì mà Thiên
Chúa đã hứa với họ.
Đoạn thư gửi cho tín hữu
Galat này gợi ý cho biết tuổi trưởng thành của Chúa Giesu -con Thiên Chúa- đến
từ lúc Chúa sinh ra làm người. Người con Thiên Chúa này đã thi hành hai lần sứ
mệnh: Thứ nhất, phải “chuộc lại” hay là giải phóng những ai đã nằm trong
chế độ luật. Thứ hai, ban nhận làm “con nuôi”những ai đã được tự do bởi
luật giải phóng. Ngoài ra với việc nhận làm con nuôi, Chúa Thánh Thần sẽ chuyển động vào tâm hồn những tín hữu để họ
có thể nhận biết Thiên Chúa hầu có thể tuyên xưng Người là “Cha.”
Như vậy qua hình ảnh chi
tiết về lịch sử ơn cứu chuộc chúng ta thấy có một thay đổi căn bản trong tình
liến đới. Trước khi gửi Con Thiên Chúa xuống thế, loài người chỉ có thể liên hệ
với Thiên Chúa như là tớ với chủ. Bây giờ tất cả những ai nhận được ơn Chúa
Thánh Thần thì có một tình liên đới khác dặc biệt với Thiên Chúa. Họ có thể nhận
thấy họ là con Thiên Chúa trong tình nghĩa cha con. Họ bây giờ được nhận là con
nuôi, họ có thể thừa hưởng gia nghiệp của Cha mình là Thiên Chúa như đã hứa là
có đầy đủ ơn Cứu Chuộc. Quyền lực của Thiên Chúa, cuối cùng đã thể hiện trong
tình liên đới mà Người đã ban cho những ai được mang lại gần nhờ Thiên Chúa Con
qua hành động của Chúa Thánh Thần.
Bài Tin Mừng Phúc Âm: Lc
2:16-21
Khi các mục đồng đến
Bethlehem thì họ bắt đầu hiểu được sứ điệp của các thiên thần. Mẹ Maria cầu
nguyện về biến cố vĩ đại này. Chúa Giesu nhận tên mình theo như nghi thức Do
Thái về phép cắt bì.
Bài Tin Mừng hôm nay
kết thúc câu chuyện Giáng Sinh. Trong khi chúng ta chú ý đến con trẻ Giêsu nằm
trong máng cỏ. Nhờ con mắt chúng ta nhìn thấy Chúa Hài Đồng Giesu. Con mắt đó lại
chính là con mắt của các mục đồng. Các mục đồng là khuôn mẫu của sự thành tâm của
người Kito hữu bắt đầu từ lúc chúng ta có niềm tin.
Hôm nay, chúng ta nhắc lại
tuyên xưng Phúc Âm trong thánh lễ Giáng Sinh Bình Minh có thêm câu báo tin đặt tên
Chúa là Giêsu trong lúc Chúa chịu phép cắt bì. Trong ngữ cảnh của buổi lễ hôm
nay, chúng ta nên chú ý đặc biệt đến hình ảnh của Mẹ Maria. Luca thuật lại rằng
“Maria giữ kỹ những sự việc này” trong lòng khi mẹ nhận được sứ điệp của các thiên thần qua lời loan
báo của các mục đồng. Như vậy chúng ta nhìn thấy Maria -trong một cảm nghĩ rất
thực- như một Kito Hữu đầu tiên chiêm niệm. Thiên Chúa đã thông công với Mẹ một
cách đặc biệt, bắt đầu với ơn Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và tiếp tục qua việc
Mẹ sinh ra Chúa Giêsu. Chắc chắn, việc nghiền ngẫm trong tâm những sự việc đó
đã khiếm mẹ ngạc nhiên về những điều mà Thiên Chúa có thể còn giữ cho mẹ về sau
này.
Thêm vào những chiệm niệm
của mẹ về màu nhiệm Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể nhìn thấy Mẹ Maria là mẫu
mực của sự vâng lời. Xuyên suốt qua những chương đầu của Tin Mừng Luca,
ta thấy Mẹ lắng nghe toàn vẹn sứ điệp của thiên thần và mẹ phó thác mẹ cho mọi ước
muốn của Thiên Chúa. Khi tường trình Chúa Giêsu chịu phép cắt bì và đặt tên gọi
cho Chúa là Giêsu theo lời thiên thần khi báo tin Mẹ sẽ thụ thai Chúa. Tất cả
những sự kiện đó cho thấy Mẹ Maria đã trung thành, tin tưởng không chỉ với
Thiên Chúa mà còn giữ trách nhiệm là người mẹ Do Thái. Chúa Giesu, giống như
người anh bà con là Gioan Tiền Hô (Lc 1:59), cũng được dạy dỗ giáo dục theo
truyền thống niềm tin Do Thái. Với danh hiệu Theotokus -một danh hiệu cổ Hy Lạp
chỉ Maria là Mẹ Thiên Chúa- Mẹ chính là gương mẫu của vâng lời đáng
cho chúng ta chiêm niệm.
Fleming Island, Florida
Dec. 31, 2022
NTC