CHÚA NHẬT 4A PHỤC
SINH
Cv 2:14a,36-41; 1Pr
2:20b-25; Ga 10:1-10
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh,
MD
Chúa nhật này đặc biệt
nói về Chúa Chiên Lành và ơn Cứu chuộc. Cả hai bài đọc 1 và 2 và bài Tin Mừng
Phúc Âm thánh Gioan đều nêu lên những việc chúng ta phải biết để tin và phải
làm để được ơn Cứu chuộc do Chúa Giêsu Kito đã chịu chết và phục sinh.
Bài đọc 1 (Cv 2:14a,36-41) là bài giảng của thánh Phero trong
khung cảnh ngày lể Chúa Thánh Thần hiện xuống, lúc “những người Do Thái mô đạo
đến từ mọi quốc gia tụ họp tại Jerusalem” (2:5) để mừng lễ gặt đầu
mùa. Đi vào cốt lõi của vấn đề, bài giảng của Phero là một tiếp nối hoàn toàn
câu chuyện nguồn gốc của đạo Do Thái. Sách công vụ các tông đồ ghi rằng 11 tông
đồ lúc đó cũng có mặt cùng với Phero, nên đã có đầy đủ đại diện của 12 chi họ
Israel. Phero đã lên tiếng nói với “toàn thể nhà Israel” và ông đã trút
mọi tội lỗi đã đóng đanh giết chết chúa Giesu trên thập giá lên đầu họ. Theo ngữ
cảnh của bài giảng, đây là lời tố cáo dân Do Thái đã xúc phạm đến uy quyền tối
cao của Thiên Chúa, Phero đã kêu gọi họ ăn năn thống hối và trở lại, chịu phép
thanh tẩy để đón nhận Chúa Thánh Thần. Để nhấn mạnh sự quan trọng của vấn đề,
Phero đã lớn tiếng phán Thiên Chúa đã chấp nhận mình là tội nhân để biến đổi
thành“Chúa và Kito / Chúa Giêsu Kito”.
Bài giảng cho thấy
đám đông đã thực sự bị tổn thương vì lời tố cáo của Phero, và làm sao họ có thể
ăn năn thống hối vì cái tội tầy trời ấy. Giải quyết của Phero là phép Thanh
Tẩy. Chắc chắn có một số người đã nhớ lại phép rửa của thánh Gioan Tẩy
Giả khi nghe Phero kết thúc vấn đề là phải “thống hối và chịu phép rửa.”
Tuy nhiên, không giống như phép rửa của Gioan, là phép rửa để chuẩn bị cho thời
cánh chung trong tương lai, mà là một phép rửa chuyển đạt tặng phẩm của Chúa
Thánh Thần.
Phero kết thúc lời
khuyên của mình với bảo đảm là lời kêu gọi trở lại này phát ra không chỉ cho cộng
đồng người Do Thái nhưng cho toàn thể loài người, tất cả những ai lúc đó không
hiện diện ở Jerusalem. Cũng không giống như hiểu biết của người Do Thái về giao
ước của Thiên Chúa hồi xa xưa, một giao ước mà Thiên Chúa đã ghi ra chỉ cho một
số người đặc biệt để được cứu rỗi, những ai Thiên Chúa muốn mà thôi. Giao ước
bây giờ không còn giới hạn nữa. Sách Công vụ tông đồ đã cho biết quyền lực kêu
gọi của Thiên Chúa đã lan tỏa đi xa khắp muôn phương và hôm đó đã có cả 3 ngàn
người tin lời Phero và chịu phép rửa.
Bài đọc 2 (1Pr 2:2:20b-25) lấy từ thư được cho là của thánh Phero,
và là một phần của bài ca Kito giáo thời sơ khai dựa vào chương 53 sách Isaiah (Is
53:4-12) diễn tả rất nhiều về một “đầy tớ đau khổ” được Thiên Chúa gửi đến
để chữa lành thế giới. Tác giả gọi chúa Kito là đầy tớ đã phải chịu nhiều đau
khổ mà không hề hận thù oán trách. Chúa Kito ở đây là một gương mẫu hoàn hảo về
đau khổ. Tác giả muốn nhắc nhở người Kito hữu là khi mà Chúa Kito chịu đau khổ
vì danh họ thì họ cũng phải nhẫn nhục chịu đựng cực khổ trong thực tế hàng ngày
hiện tại của họ. Sức chịu đựng đau khổ này cùng với Chúa Kito chính là một ân huệ
Chúa ban mà người Kito hữu chúng ta nói là “ơn gọi.”
Vậy thì cách thực
hành chịu đựng đau khổ đó mà người Kito hữu phải làm là gì? Tác giả đưa ra nhiều giải pháp như: hứa không
phạm tội, không ăn gian nói dối, không xỉ nhục khi bị xỉ nhục, không đe dọa khi
bị đe dọa, không oán giận khi bị hàm oan... Đáp trả thích hợp cho mọi trường hợp
sẽ là trắc nghiệm về sự nhẫn nại của một Kito hữu có sẵn sàng chấp nhận đau khổ
như Chúa Kito hoàn toàn hiến mình cho “một đấng phán xét công minh” không. Vị
quan tòa này chính là Cha Người, do đó sự đau khổ này là một hiến tế tình yêu.
Cuối cùng, bài đọc kết thúc bằng lời kêu gọi “hãy sống
công chính”. Nó khả hữu vì người Kito hữu đã được chữa lành bởi sự đau khổ
của Chúa Kito. Người đầy tớ đau khổ bây giờ đã trở nên giống như một chúa chiên
lành luôn luôn săn sóc đàn chiên của mình. Tác giả cũng tố cáo độc giả là có
lúc đã rời đoàn chiên, xa lìa cộng đoàn, nhưng bây giờ đã trở lại để coi sóc đoàn
chiên. Từ coi sóc, tiếng Hy Lạp là episkopos, ám chỉ “giám mục.”
Vậy, bài ca Kito giáo thời sơ khai có thể hiểu là một nghề thuộc về cả Chúa
Kito lẫn uy quyền của Giáo Hội.
Chúa Giesu đã cho
chúng ta một gương sống sáng chói: Người chịu đau khổ vì chúng ta, Người không
làm điều sai trái, Người không đáp trả lời súc phạm hay đe dọa. Người chết vì tội
lỗi của chúng ta. Nhờ những vết thương của Người, chúng ta được chữa lành.
Bài Tin Mừng Phúc Âm
thánh Gioan (Ga 10:1-10)
Bài đọc này có một sức
mạnh và uy quyền chắc nịch được chia làm hai phần. Phần đầu được trình bày dưới
hình thức một dụ ngôn. Phần hai là cắt nghĩa dụ ngôn đó. Thánh Gioan đã giảng
giải rộng ra nghĩa của dụ ngôn trong phần này.
Tiêu đề của chương 10
Tin Mừng thánh Gioan, là “Mục tử nhân lành hay Chúa Chiên Lành”. Ở đây Chúa Giêsu dùng 2 hình ảnh khác nhau để
làm nổi bật sự săn sóc ân cần của Chúa đối với những ai theo Chúa. Hình ảnh thứ
nhất về người chăn chiên hợp pháp và có uy quyền, là Chúa Chiên Lành, là những
người mà tiếng nói của họ được chiên nhận biết và họ nhận ra chiên của mình từng
con một với tên tuổi rõ ràng. Vị chăn chiên này không dẫn dắt chiên của mình đi
lạc đường hoặc lợi dụng chiên để ăn cắp hay mưu cầu tư lợi, lại có một liên hệ
thắm thiết và chân thật với chiên. Nhưng những người biệt phái đã không hiểu ý
chúa Giêsu ám chỉ họ là những mục tử giả.
Hình ảnh thứ hai mà
chúa Giêsu nói là “cái cổng”. Chúa ám chỉ Chúa chính là cái cổng,
một đặc thù của Chúa Chiên Lành để bảo vệ chiên. Nó ngăn cản “kẻ trộm, kẻ
cướp”, ngăn cách những kẻ chăn chiên giả ra khỏi đoàn chiên. Ám thị này nói về
ơn Cứu Chuộc. Khi những ai đi qua cổng này, những ai đến để nghe tiếng nói, lời
nói của Chúa Giêsu và tin vào Chúa thì sẽ đến được với Cha Người và được cứu rỗi.
Những kẻ chăn chiên giả sẽ phá hoại chiên, ý nói phá hoại Giáo Hội. Họ không
vào với đoàn chiên qua cửa chính thức mà đi loanh quanh hoặc leo rào mà vào là
kẻ gian, là kẻ chăn chiên giả.
Chúa Giêsu là “Mục
Tử Nhân Lành, là Chúa Chiên Thực” thì ban sự sống dồi dào cho chiên. Chúa
Giêsu chính là cái cổng đáng tin cậy dẫn đưa mọi người đến với Thiên
Chúa. Người chính là đường dẫn đưa đến ơn cứu độ thật. Không qua Người không được
ơn cứu độ. Tóm lại, Chúa Giêsu là “Chúa Chiên, mục tử nhân lành”. Người
biết chiên của Người và chiên của Người biết Người. Ai gia nhập đoàn chiên của
Người thì được an bình.
Fleming Island,
Florida
April 26, 2023
NTC