SNMC-Tuần 5-Năm C
Is 43:16-21; Pl 3:8-14; Ga 8:1-11
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
“Hãy
đi đi! Và đừng phạm tội nữa.”
Lạy Thiên Chúa! Xin ban cho con có lòng trung tín và tha
thứ cho con vì đã lỗi lầm chống lại những quốc gia không có niềm tin. Lạy Chúa!
Xin hãy cứu thoát con khỏi những gian dối và quỷ quyệt, vì Chúa là Thiên
Chúa và là sức mạnh của con! (Tv 43/42:1-2)
Chúng con cầu xin Chúa -nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa là
Chúa chúng con- chúng con có thể hăng say bước đi trong cùng một tình bác ái của
Con Chúa là đấng đã tự hiến tế chết vì tình yêu thương nhân lại. Qua Chúa Giêsu
Kito, Con Chúa, đấng hằng sống hằng trị với Chúa Thánh Thần là một Thiên Chúa
duy nhất đến muôn đời.
*Bài đọc 1 (Is 43:16-21): Hy vọng ở tương lai
Đây là lời kêu gọi phải hy vọng vào tương lai. Thiên Chúa
không chết. Hãy nhìn xung quanh xem mọi việc kỳ diệu Chúa đã làm.
Qua bài đọc này, tiên tri Isaiah kỳ vọng vào một tương
lai huy hoàng hơn cho dân Israel cổ đại. Những giòng đầu của bài đọc là miêu tả
uy quyền và sức mạnh quân sự của Thiên Chúa trên loài thụ tạo. Những diễn tả
này của Thiên Chúa được thể hiện qua việc dân Israel vượt qua Biển Đỏ và quân đội
của Paraoh bị hủy giệt được nói trong sách Xuất Hành. Vậy chúng ta đã được tiên
tri Isaiah tế nhị khuyến khích nhớ lại những việc làm kỳ diệu mà Thiên Chúa đã
làm trong quá khứ. Việc này buộc chúng ta phải cố gắng nhớ lại những chuyện cũ,
nó như những mệnh lệnh mà Thiên Chúa đã truyền cho dân Ngài là “Hãy quên đi
những biến cố ở quá khứ, những việc xa vời về trước coi như đã qua, và hãy coi
kỹ điều mới Ta đang làm đây!” Hình như khó có thể nhận ra được một điều gì
là mới trừ khi biết là điều đó đã xẩy ra rồi và xẩy ra thế nào. Tuy nhiên điều
nghịch lý của ký ức lại nằm ngay trong nền tảng của việc quả quyết Thiên Chúa
thực sự “đang làm điều mới lạ.”
Điều mới lạ này là gì? Đó là việc Thiên Chúa cải đổi lại
dân Ngài. Việc cải đổi này được thể hiện rõ ràng qua việc Thiên Chúa dự phòng
nước hằng sống. Quyền năng tạo dựng này về sau được thể hiện khi Ngài đem nước
vào hoang địa, và dã thú quì phục vinh danh Ngài. Isaiah rõ ràng đã xác quyết
là mục dích của nước ở trong sa mạc là để cho dân Ngài uống, không phải để cho
dã thú hay sa mạc. Nếu loài vật có thể nhận ra được vinh quang của Thiên Chúa
qua các hành động của Ngài thì sự đáp trả của loài người đối với những hành động
của Thiên Chúa phải to lớn nhân lên gấp bội mới đúng. Việc làm của Thiên Chúa lạ lùng như vậy thì
dân Ngài “phải lên tiếng ngợi khen Ta”(c. 21) là đương nhiên rồi.
Giống như mệnh lệnh cho dân Israel cổ đại về việc nhớ lại
và quên đi, chúng ta cũng cần suy niệm về chính việc cải đổi của chúng ta, nhớ
lại chúng ta là ai và bỏ nó lại đằng sau để chúng ta có thể nhìn vào chính chúng
ta và xác định chúng ta là ai trong Chúa Kito hiện nay. Mùa Chay sa mạc của
chúng ta cũng sẽ được biến đổi tương tự để đi vào mùa Phục Sinh vui mừng
và chúng ta có lý do để ca tụng Thiên Chúa. Bài đọc này chuẩn bị cho chúng ta
thời khắc đó chỉ còn hai tuần nữa chúng ta vui mừng cuộc khải hoàn phục sinh của
Chúa Giêsu Kito từ cõi chết, vinh danh Thiên Chúa vì lòng thương sót và tình yêu
thương vô bờ bến của Thiên Chúa đối với chúng ta.
*Bài đọc 2 (Pl 3:8-14) nói về Đời sống
trong Chúa Kito
Tin vào Chúa Kito thì được cứu rỗi, nhưng không thể lơi
là. Trong suốt cuộc sống, chúng ta phải
liên tục cố gắng sống trong đức Kito và làm điều tốt với mục đích là thiên đàng
mai sau.
Qua bài đọc này thánh Phaolo giúp chúng ta ý thức về hai điều
cơ bản về mất và được. Ông coi “mọi sự như là mất hết” để
so sánh với việc ông được biết “Chúa Kito là Chúa ông.” Từ “mất” được
thánh Phaolo hiểu theo nhiều nghĩa. Có những mất mát của cải vật chất hay danh
vọng vì biết Chúa Giêsu Kito mà bị đánh đập, hành hạ và tù tội mà Phaolo đã
gánh chịu vì tin vào Chúa. Cũng có mất mát tình cảm của cộng đồng vì Phaolo đã
giảng dạy, thông báo Tin Mừng mà bị chính dân thành là những người mà ông muốn
cứu đã đuổi ông ra khỏi thành. Mỗi một mất mát đó đều phải trả cái giá tâm lý.
Nhưng Phaolo coi những mất mát đó chỉ là “ đồ bỏ/rác rưởi” so với tình liên đới
của ông đối với Chúa Kito.
Phaolo gọi tình liên đới này là điều“được”, nó làm
cân bằng những mất mát để tung hô ca ngợi và tiếp tục sống làm người Kito hữu. Ông
đánh giá cao tình liên đới của ông với Chúa Kito vì ông nhận ra bất cứ một điều
thiện điều công chính nào mà ông có được đều là do ở “niềm tin của ông nơi
Chúa Kito” và “phù hợp tuân theo với cái chết của Chúa”. Suy niệm về
những mất mát của Chúa Kito vì chúng ta, thánh Phaolo sẵn sàng chấp nhận những
mất mát của ông để ông có thể “được sống lại từ cõi chết”. Đây là hy vọng
cuối cùng mà Phaolo theo đuổi với hết tâm trí và sức lực mình. Thánh Phaolo so
sánh hành động này như hình ảnh một lực sĩ tranh giải thể thao. Người lực sĩ luyện
tập tranh đấu gian khổ là để cuối cùng đạt thắng lợi là “phần thưởng” từ
trời cao Thiên Chúa dành cho những kẻ được gọi trong đức Kito. Ông chấp nhận những
mất mát của ông vì ông nhìn xa trông rộng, nhắm vào điểm chót của cuộc sống
trong Chúa Kito và sự sống lại từ cõi chết. Như bài đọc 1, Phaolo không nhớ lại
những giá trị cũ chỉ là mau qua như gió thoảng mây bay; ông vui mừng tung hô những
giá trị Kito giáo đã dẫn đưa ông đến đời sống vĩnh cửu trong Chúa Kito.
Gần kết thúc mùa chay, chúng ta nên nhìn về phía trước với
hy vọng sống lại sau này như Chúa Kito phục sinh đã hứa. Suy niệm về sự chết và
sống lại trọn vẹn của Chúa Kito cho cuộc sống của chúng ta, chúng ta nên coi những
mất mát của chúng ta là do chúng ta sống ngoài niềm tin Công Giáo, dù cho rất
khó có thể cảm nghiệm thấy được, vì không gì có thể so sánh với những thứ mà
chúng ta có được qua Chúa Kito. Giống như thánh Phaolo, chúng ta là những lực
sĩ tranh giải cho thắng lợi cuối cùng trong sự phục sinh từ cõi chết và vui hưởng
hạnh phúc vĩnh cửu trước sự hiện diện của Thiên Chúa.
*Bài Phúc Âm hôm nay (Ga 8:1-11) nói về Sự tha
thứ của Chúa Giêsu Kito.
Qua thí dụ và việc Chúa Kito làm, chúng ta thấy
Thiên Chúa đã tỏ lòng thương sót đối với những người tội lỗi để giải thoát họ
khỏi cảnh tù đầy nô lệ của tội.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cái mất và cái được giống
như bài đọc 2 hôm
nay và trước đây. Bài Phúc Âm Gioan hôm nay làm nổi bật sự căng thẳng giữa Chúa
Giêsu và những người lãnh đạo Do Thái. Nhưng uy quyền của Chúa Giêsu đã hướng dẫn
những người hiên diện trong cuộc phải hành động theo lương tâm mình Câu chuyện
như thể gài bẫy Chúa không cần biết Chúa sẽ trả lời thế nào. Nếu Chúa nói với
người đàn bà là Chúa không phạt bà thì Chúa đã làm ngược lại luật. Nếu Chúa nói
Chúa phat bà thì rõ ràng Chúa cũng đã làm trái với chính lời Chúa nói là tha thứ
và thương sót.
Những nhà thông luật và biệt phái đã đoán và biết trước
là Chúa Giêsu sẽ làm ngược lại luật Maisen để “họ bắt lỗi Chúa và kết tội Chúa.”
Họ không cần biết chính luật lệ là thứ buộc cà người đàn ông lẫn đàn bà
đều cùng có trách nhiệm. Trong khung cảnh này thì người đàn ông ở dâu? Việc
họ tấn công Chúa Giêsu chỉ gây thảm hại cho hai thủ phạm mà thôi. Thêm vào đó, yêu
cầu của họ ám chỉ là việc ném đá không phải là vệc thường làm, như vậy là họ
không còn cách nào khác để hỏi Chúa.
Trả lời của Chúa Giêsu chính là chọn lựa thứ ba mà các
nhà thông luật và biệt phái không muốn: Chúa không đồng hóa Chúa với họ. Chúa
lặng lẽ viết trên mặt đất những điều mà chính họ đòi hỏi. Cuối cùng khi Chúa
không trả lời những câu họ hỏi nhưng Chúa ném quả banh lại cho tòa án. Họ
có thể chọn hành động ném đá người đàn bà, tuy nhiên Chúa bình tĩnh nhắc nhở mọi
người hiện diện lúc đó là tất cả đều cần lòng thương sót và tha thứ. Lúc đó chẳng
một ai dám tuyên xưng mình là vô tội trước mặt mọi người.
Cuối cùng thì Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà. Chúa
không nói tội của bà đã được tha nhưng nói bà sẽ không bị kết án. Việc không kết
tội này rõ ràng là điều mà các nhà thông luật và biệt phái biểu lộ ra khi họ
rút lui khỏi hiện trường. Còn nữa Chúa Giêsu không tha thứ cho hành động của
người đàn bà, Chúa phán đừng phạm tội nữa. Trong mệnh lệnh này người đàn
bà nhận lời kêu gọi phải cải đổi cuộc sống. Đây là khoảnh khắc nhắc nhở người
đàn bà phải nhớ lại quá khứ tội lỗi và dứt bỏ nó đồng thời cố gắng sống tốt
lành không tội lỗi và theo Chúa Giêsu Kito. Đây là cơ hội cho bà và chúng ta để
thấy rõ nhận biết Chúa Kito là điều “được” và tất cả những gì khác là “đã
mất,” như thánh Phaolo nói trong bài đọc 2.
Sau cùng chúng ta có nên thắc mắc về hành động của người
đàn bà khi bà rời Chúa Giêsu, bà ta có làm theo lời Chúa hay không? Và chúng ta
cũng nên trả lời cho chính chúng ta.
Fleming Island, Florida
April 7, 2025
NTC