QUÀ TẶNG TIN MỪNG:
Chúa Nhật IV Mùa Chay năm C
Gs 5: 9a, 10-12; 2Cr 5:17-21; Lc 15:1-3, 11-32
Bác
sĩ NGUYỄN TIẾN CẢNH, MD.
Kính mời theo
dõi video tại đây:
https://bit.ly/3uyaE5v
Tin Mừng thánh Luca đoạn 15 nói về những
gì đã mất được tìm thấy như dụ ngôn chiên lạc (c.1-7), đồng bạc bị
mất (c. 8-10), và câu chuyện người cha nhân hậu dùng làm bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay (Lc
15:11-32). Chủ điểm nói về Tha Thứ, Hòa
Giải và Ân Huệ.
Câu chuyện đứa con hoang đàng rất
đặc biệt cả ở nội dung lẫn hình thức. Tác giả đã khéo léo vẽ nên một quang cảnh
khá linh động, gây
được cảm xúc nơi người đọc. Từ hồi hộp đến ngỡ ngàng. Nhưng tác dụng đó cũng
tùy người. Vì vậy câu chuyện đã gây tranh cãi khá sôi nổi. Có người khen, kẻ
chê người cha. Có người ghét, kẻ thương đứa con hoang đàng. Còn người anh cả
chúng ta nghĩ sao?
Theo câu chuyện, người con út sau khi
được chia phần gia tài đã bỏ nhà đi hoang, ăn chơi trác táng đến lúc không còn
đồng xu dính túi, phải đi ở đợ, đói khổ chịu không nổi mới trở lại với gia
đình. Người cha, quá dễ dãi, tha thứ cho con một cách vô tội vạ. Người con cả
vì có trách nhiệm, biết cần cù làm ăn, phụng dưỡng cha già, thấy người cha đối
xử quá khoan dung với thằng em, thì nổi sùng trách móc cha mình.
Đây là tâm trạng chung của con người
bình thường ngày nay cũng như ở thời Chúa Giêsu. Vậy Chúa muốn nhắn nhủ
chúng ta điều gì qua câu chuyện này?
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã viết
trong tông huấn của ngài năm 1984 nhan đề “Hòa
Giải và Thống Hối Reconciliatio et Paenitentia”: “Dụ ngôn đứa
con hoang đàng là câu chuyện nói về Tình Yêu
tuyệt vời không kể xiết của Thiên Chúa Cha đối với người con khi nó trở lại với
mình. Ngài đã cho hắn một ơn tặng là sự hòa giải hoàn toàn. (….) Câu chuyện nhắc nhở chúng ta cần phải cải đổi tâm hồn vì
lòng khoan dung của Người Cha rồi quyết tâm lướt thắng
mọi thù nghịch và oán hận…
BA HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI CON
HOANG ĐÀNG
Theo truyền thống Do Thái, con cả
được quyền thừa hưởng hai phần gia tài. Con thứ chỉ được hưởng chừng 1/3
gia sản. Hành động đòi chia gia tài của người con thứ là một xúc phạm đối với
người cha, vì nghĩ là cha mình “còn lâu mới chết”. Nó không đủ kiên nhẫn đợi đến khi cha mình qua đời.
Thế là sau khi được chia phần, nó
liền thoát ly gia đình. Nó đi thật xa, vì nghĩ rằng ở nơi xa lạ sẽ có nhiều cơ
hội, lắm lạc thú và hạnh phúc mà ở nhà không có. Nhưng kết quả ngược lại. Khi
tiêu xài hết tiền của, nó phải đi ở đợ, làm nô lệ, chăn heo, một loại súc vật
coi là dơ bẩn, đến độ quá đói chỉ mong có thức ăn của heo để ăn cũng không có.
Theo tục lệ và
luật Do Thái, một số súc vật bị cấm không được ăn thịt như heo, gà, lạc đà, dê,
ếch nhái… vì bị coi là đồ dơ bẩn. Trường hợp này, đứa con hoang đàng lại đi
chăn heo, ăn cả đồ ăn heo… là lỗi luật vô cùng.
Chuyện kể anh ta đã “ăn tiêu phung phí
hết cả phần tài sản của mình.” Ở đây ngoài nghĩa đen ta nên hiểu thêm
nghĩa bóng về hành vi của người con hoang đàng. “Tư cách của nó cũng bị
tiêu tan”. Không chỉ tiêu xài
hết tiền bạc, nó còn trác táng làm mất
cả nhân cách, đồi bại gia
phong, đạo giáo của gia tộc!
Đến đây anh chàng “hồi tâm nghĩ lại”. Nhớ đến thời vàng son ở với gia đình. Quả là điên khùng mới đi đến “nông nỗi này”. Đó là
khởi đầu của “hối hận”, dù tự nó
chưa phải là “thống
hối” thực sự.
NGƯỜI CHA NHÂN HẬU
Điểm nổi bật nhất ở “người cha” là, ông đã đi bước trước. Khi vừa nhìn thấy con
mình từ xa đi lại, thất thểu, bệ rạc, sợ hãi, ông liền chạy lại ôm chằm lấy con
mà hỏi han, thay vì đợi con lê lết vào nhà và mắng chửi.
Theo lẽ bình thường, cử chỉ của người
cha như vậy có vẻ
không thích hợp và kỳ cục. Bởi
vì hành động đó là quá đáng không xứng hợp
với một đứa con hư đốn như vậy.
Nhưng ở một khía cạnh
khác, tình yêu thương đầy lòng cảm
thông và trắc ẩn của người cha. Ông “ôm
con, hôn con lên trán, lên cổ, lên má, vuốt ve mặt mũi con tỏ vẻ lo âu sao con
mình gầy gò ốm yếu, xanh xao dơ bẩn thế này”. Ông lại truyền cho gia
nhân đem quần áo mới ra mặc cho cậu, giày mới cho cậu đi như không có chuyện gì
đã xẩy ra. Đó là dấu hiệu của Tự Do, của ân huệ, hình ảnh của Gia Đình, của cái gì mất bây giờ tìm lại được! Một tình thương vượt qua cả hận thù!
Thực ra, người cha có quyền đuổi người
con đi, không cho vào nhà, vì
đã quá hư đốn. Không nghe lời cha. Bỏ nhà đi hoang. Không chỉ làm mất danh giá gia đình,
đồi bại gia phong mà còn nêu gương xấu cho xóm làng. Họ sẽ chê trách, thù oán
cha mình vì con họ có thể sẽ bắt chước gương xấu đó mà hư thân.
NGƯỜI CON CẢ TỰ KỶ ÁM THỊ.
Đối với người anh cả, phản ứng của anh
không có gì là sai trái. Anh phẫn nộ là hợp lý. Anh nói, anh đã chu toàn
bổn phận làm con, mà cha anh không tỏ vẻ gì gọi là
quảng đại yêu thương anh. Anh cảm thấy anh “bị lạm dụng”. Việc phụng
dưỡng cha già từ bao năm nay không
được thưởng công gì cả. Anh không có ý
kể công nhưng anh cảm thấy anh bị hất hủi và bỏ quên. Anh đau khổ vì tự kỷ ám
thị chăng?
Đối với người em, anh rất thực tế khi kết án người em. Vì đã “tiêu xài hết tiền của với bọn đĩ
điếm”, đã làm mất gia phong tập quán tốt.
Trước hai nghịch cảnh đó, thiên hạ sẽ nghĩ sao về đứa con út của ông chủ trại
đi hoang; nay thân tàn ma dại thì
trở về, lại được chiêu đãi linh đình? Là anh cả, anh cũng
phải chịu một phần nhục nào chứ? Anh
đâu chỉ biết nghĩ xấu về em mình, và kết án người em với những cáo buộc cay đắng nhất?
Anh đã nhất quyết “đá văng em mình ra
khỏi lòng mình” cho rằng nó chỉ là “con của người cha thôi”, không phải
là em mình, như chúa Giêsu đã từng nói: Bề ngoài là con đấy, nhưng trong tâm
thực sự lại không phải là con.
Đúng vậy, một
khi nghĩ mình không có tự do, thì tự cảm thấy mình giống như nô lệ? Sống trong gia đình với cha mẹ mà cảm thấy không
vừa ý, coi mình như người xa lạ, thì sẽ cảm thấy mình không phải là con, không
phải là người nhà?
MỞ RỘNG KHUNG TRỜI
Với ý niệm này, xin được trích ít lời
khá ý nghĩa trong một quyển sách nhan đề “Love
Alone is Credible/Chỉ có Tình Yêu Mới Đáng Kể” của tác giả Hans Urs Von Balthasar (Ignatius Press,
2004), để chúng ta
cùng suy niệm:
“Một khi người ta biết được những dấu hiệu của tình yêu thì người ta sẽ tin
vào đó. Nó sẽ dẫn đưa người ta vào khung trời rộng mở ở bất cứ đâu mà người ta
có thể yêu.
“Nếu người con hoang đàng tin rằng cha nó
sẽ không chờ đón hắn thì hắn sẽ không trở về, ngay cả khi cha nó đón nhận nó
một cách mà nó không thể ngờ được.
“Vấn đề cốt
lõi là
người có tội đã hiểu biết tình yêu là thứ có thể và thực sự đang dành cho họ. Họ không phải là người tự mình đến để
đứng vào hàng ngũ với Thiên Chúa. Thiên Chúa thì luôn luôn nhìn họ như một kẻ
tội lỗi không có tình yêu, một đứa trẻ cần được yêu, và Ngài ngước mắt nhìn người
có tội, ban cho họ địa vị xứng đáng vì tình yêu ấy”. (p.103)
HÒA GIẢI LÀ BỔN PHẬN CỦA
NGƯỜI KITO HỮU
Câu chuyện Đứa Con Hoang Đàng được thánh
Phaolo tóm tắt thật tài tình trong bài đọc 2 thư gửi tín hữu Corinto (2Cr 5:17-21). Ngài cho biết Thiên
Chúa hòa giải bằng nhiều cách.
Thật uyển chuyển, tiến lui rất nhẹ nhàng từ hành động đến công tác mục vụ.
Nếu chúng ta hòa giải được
với Thiên Chúa, với chính chúng ta và với tha nhân, rồi
mang cái “tâm hòa giải” của mình và sự hòa giải của Thiên Chúa áp dụng vào xã
hội, cộng đồng của chúng ta, thì chúng ta có thể là sứ giả của Hoàng Tử Hòa
Bình. Thiên Chúa đã sai Con Một
của Ngài xuống trần để hòa giải với loài người, thì Ngài cũng muốn chúng ta bắt
chước Ngài cải đổi thế gian cho mọi sự được hòa hợp giữa một thế giới đổ nát,
gia đình tang thương và Giáo Hội chia rẽ.
Chúng ta được tha thứ nhiều, hãy đến với những
người anh chị em, hàng xóm láng giềng, bạn bè, những kẻ tội lỗi, vui với họ,
hân hoan hòa giải cùng họ, tha thứ cho nhau trong bí tích Hòa Giải và bí tích
Thánh Thể.
Trên hành trình Mùa Chay đi về nhà Cha,
chớ gì bài ca tạ ơn và niềm vui hòa giải bùng lên trong những tâm hồn
hoang dại, sa mạc hận thù, chai đá và ác quái của chúng ta. Xin Thiên Chúa chỉ
dạy chúng ta biết đọc và nhận ra những dấu chỉ của tình yêu, biết vui trong
lòng khi Lời Chúa đến với chúng ta trên đường đi tới hòa giải.
LỜI KẾT: THIỆN
CHÍ HÒA GIẢI
Câu chuyện dụ ngôn này của thánh Luca có
hai điểm đặc biệt:
1-Thiên Chúa hoan
nghênh, đón chào những kẻ tội lỗi và những kẻ bị xã hội và tôn giáo không
chấp nhận.
2-Ca Ngợi, Vui Mừng là
những cử chỉ tiếp theo hành động đón chào. Đó là một hồi đáp cho sự ăn năn
thống hối mà Thiên Chúa luôn luôn khuyến khích mỗi người chúng ta phải thực
hành.
Người cha quảng đại hân hoan đón chào
đứa con hoang đàng, nhưng không từ bỏ người con cả, vẫn ở với nó và trung thành
với nó, yêu thương nó, dù nó đã phản đối, không chấp nhận lòng nhân hậu của
mình. Người cha nói với anh ta:
-Con à! lúc nào con cũng
ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con” (c.31). Sửa đổi
em con là đứa “đã chết nay sống lại”, “đã mất
nay tìm lại được” không làm giảm giá trị lòng trung thành của con
đối với cha. Em con, nay được sát nhập trở lại gia đình, phải khởi sự cuộc sống
trung tín từ đầu.
Người cha là biểu tượng cho Thiên Chúa.
Hòa giải với người cha, tức hòa giải với Thiên Chúa. Hai người con cũng
phải dàn xếp và hòa giải với nhau.
Thử đặt vấn đề: Nguời anh sau cùng có
làm hòa với em mình và đón chào hắn trở về không? Anh ta trong lòng có thực sự
muốn tha thứ cho người em không? Có chia sẽ niềm vui với cha mình không? Hay
là, kết thúc, anh ta cũng coi mình như người xa lạ hơn cả em mình nữa? Còn
người mẹ ở đâu? Phản ứng của người mẹ thế nào? Chúng
ta chờ mong ở kết thúc của câu chuyện, nhưng Chúa Giêsu đã không cho biết. Đó là tất cả câu chuyện dụ ngôn về người cha nhân
lành. Nó mời gọi tất cả chúng ta đào sâu vấn đề
để tìm ra những giải đáp cho cuộc sống của chúng ta, ở thời đại ngày nay.
Câu chuyện “Người Con Hoang Đàng” hay
“Người Cha Nhân Hậu” hoặc “Người Anh Phẫn Nộ” có thể gây thắc mắc như nó xẩy ra
cho chính chúng ta không? Có phải người cha nhân lành đã vung vãi tình yêu của
mình vào những việc nhỏ nhặt, vớ vẩn không giống ai? Những cái ác quái, đa nghi và kiêu hãnh của chúng ta thì
sao? Chúng ta có lạm dụng Tình Yêu của Chúa, qua sự Hòa Giải, Tha Thứ và Ân Huệ của Chúa không?
Xin Chúa cho chúng con
nhận biết ra được sự Tha Thứ, Hòa Giải và Ân Huệ của Chúa.
Fleming Island, Florida
Mar. 24, 2022
NTC - Hẹn
gặp lại