Chúa Nhật IV Mùa
Chay-Năm C
(Joshua 5:9a, 10-12;
2Corinthians 5:17-21; Luke 15:1-3, 11-32)
Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Tin Mừng thánh Luca đoạn
15 nói về “những gì bị mất được tìm thấy” như ngụ ngôn chiên đi lạc
(c.1-7), đồng bạc bị mất (c. 8-10), rồi tuyệt đỉnh là câu chuyện người cha nhân
hậu và đức con hoang đàng trong bài Phúc Âm hôm nay (c.11-32).
Câu chuyện đứa con
hoang đàng là một câu chuyện rất đặc biệt, không chỉ vì ý nghĩa của nó mà còn vì
tài kể truyện của thánh Luca. Thánh Luca kể chuyện rất điêu luyện, giống như một
họa sĩ tài ba biết dùng mầu sắc một cách linh động để gây cảm súc của người coi
tranh. Màu sắc, hình ảnh và vẻ uyển chuyển của câu chuyện đã đánh động, gây từ
hồi hộp đến ngỡ ngàng cho người đọc cũng như người coi tranh. Tuy nhiên, tác dụng
đó nhiều hay ít còn tùy vào kinh nghiệm sống và tài văn chương, mắt nghệ thuật
của đương sự. Vì vậy câu chuyện đã gây tranh cãi khá sôi nổi. Có người khen kẻ
chê người cha cũng như có người ghét kẻ tỏ lòng khoan dung đối với đứa con
hoang đàng. Còn về người anh cả thì sao?
Thực vậy, cuộc sống của
mỗi chúng ta có nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi người đều cố sống để thích hợp với
từng giai đoạn. Khi còn ở tuổi vị thành niên chắc chắn ta phải sống khác với tuổi
thanh niên, lúc đã lập gia đình rồi có con, lúc đứng tuổi, và lúc tuổi đã xế
chiều… Trong câu chuyện đứa con hoang đàng này, ta thấy người con út đã bê bối,
đi hoang, ăn chơi trác táng đến không còn đồng xu dính túi, đói khổ phải đi ở đợ.
Người cha, xem bề ngoài có vẻ lẩm cẩm, tỏ ra quá dễ dãi, tha thứ một cách vô tội
vạ. Người con cả thì tỏ ra có trách nhiệm, biết cần cù chăm chỉ làm ăn, thấy
người cha đối xử quá ân cần quảng đại với thằng em đi hoang, thì nổi sùng trách
móc cha mình vì không thể chịu nổi cái bế bối của thằng em.
Mỗi người chúng ta chắn
hẳn cũng có những tâm trạng như trên. Nhưng câu chuyện ngụ ngôn này chủ ý nhắm
vào tâm tư con người vào thời Chúa Giêsu
lúc đó. Họ cảm thấy bất nhẫn trước hành động của người cha. Chúng ta thử tìm hiểu
xem chúa Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta điều gì qua chuyện ngụ ngôn này.
Trong tông huấn 1984
về “Hòa Giải và Thống Hối/Reconciliatio et Paenitentia”, Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolo II đã viết: “Câu chuyện ngụ ngôn đứa
con hoang đàng là câu chuyện nói về tình yêu tuyệt vời không thể nào diễn tả nổi
của Thiên Chúa Cha đối với người con khi nó trở lại với mình; Người đã cho hắn
một tặng phẩm là sự hòa giải hoàn toàn. (….) Vì vậy câu chuyện nhắc nhở chúng
ta là cần phải cải đổi tâm hồn vì lòng khoan dung của Người Cha rồi quyết tâm lướt
thắng bỏ qua mọi thù nghịch, oán hận đối với mọi người.”
BA HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI
CON HOANG ĐÀNG
Theo truyền thống xưa
của Do Thái, người “con cả” có quyền được thừa hưởng hai phần gia tài của cha mình.
Như vậy, người con thứ chỉ được hưởng chừng 1/3 gia sản của cha mà thôi. Nhưng dù sao đi nữa, hành
động của người con thứ đòi chia gia tài (c.12) là một xúc phạm nặng nề đối với
người cha, vì hắn nghĩ là cha mình “còn lâu mới chết”, hắn không còn nhẫn nại đủ
để đợi đến khi ông già qua đời.
Thế là khi được chia
phần cho mình rồi, người con thứ đã thoát ly gia đình (c.13), không còn coi trọng
gia phong tập quán của quê hương mình nữa. Anh ta đã đi quá xa, nghĩ rằng mình
có thể tìm thấy hạnh phúc lạc thú kỳ lạ ở phương trời xa mà ở gia đình tổ quốc
mình không có. Kết quả đã ngược lại. Khi tiêu sài hết cả tiền bạc, hắn phải đi ở
đợ, trở thành nô lệ, đi chăn heo, một loại súc vật được coi là dơ bẩn không được
xếp vào loại thức ăn,
đến độ quá đói khổ chỉ mong có được thức ăn heo (c.17) mà ăn cho no bụng cũng
không có.
Câu chuyện kể rằng
anh chàng “ăn tiêu phung phí hết cả phần
tài sản của mình” (c.13). Ở đây ngoài nghĩa đen ta còn có thể hiểu theo nghĩa
bóng là tư cách của “chính
hắn” cũng bị tiêu tan. Không
phải anh chàng chỉ tiêu sài tiền bạc bất kể đời mà còn trác táng không cần biết
đến nhân cách, mình là ai và là cái gì nữa!
Đến đây anh chàng “hồi
tâm lại” (c.17), nghĩ đến thời gian ở với gia đình
được sung sướng biết bao. Quả là mình đã quá điên khùng mới đi đến “nông nỗi này”.
Đó là bước đầu của sự hối hận, cho dù tự nó chưa phải là thống hối thực sự.
NGƯỜI CHA NHÂN HẬU
Quang cảnh nổi bật nhất
ở “người cha” là, ông đã đi bước trước, khi vừa nhìn thấy con mình từ xa đang đi
lại, thất thểu, bệ rạc, sợ hãi (c.20), ông liền chạy lại ôm chằm lấy con mà hỏi
han, thay vì đợi con lê lết vào nhà.
Cứ lẽ bình thường, cử
chỉ của người cha như vậy xem ra không thích hợp và có vẻ kỳ cục, bởi vì hành xử
như vậy là quá đáng đối với một đứa con hư. Nhưng đó lại là cử chỉ chứng tỏ tình
yêu thương của một người cha, tình yêu đầy
âu yếm với lòng trắc ẩn. Ông“ôm con, hôn
con lên trán, lên cổ, lên má, vuốt ve mặt mũi con tỏ vẻ lo âu sao con mình gầy
gò ốm yếu, xanh sao dơ bẩn thế này”. Ông lại truyền cho gia nhân đem quần áo
mới ra mặc cho cậu, giày mới cho cậu đi như không có chuyện gì xẩy ra cả
(c.22). Đó là dấu hiệu của Tự Do, hình ảnh của Gia Đình, của cái gì mất bây giờ
tìm lại được !
Thực ra, người cha có
quyền đuổi người con đi, không cho vào nhà, vì đã hư đốn không nghe lời cha, tự
mình bỏ nhà đi hoang, không chỉ làm mất danh giá gia đình, đồi bại gia phong mà
còn nêu gương xấu cho xóm làng. Họ sẽ chê trách, thù oán cha mình vì con họ có
thể sẽ bắt chước gương xấu đó mà hư thân như vậy.
BỆNH TỰ KỶ ÁM THỊ
Đối với người anh cả,
phản ứng của anh (c.25-29) không có gì là sai trái. Đó là một phấn nộ hợp lý. Phát ngôn của anh rõ ràng cho
thấy, anh đã chu toàn đầy đủ bổn phận làm con, mà cha anh không tỏ lộ gì là yêu
thương quảng đại với anh. Trái lại, anh cảm thấy anh bị lạm dụng,“làm thân trâu ngựa” cho cha từ bao năm
nay mà không được đền đáp thưởng công gì cả. Điều anh có ý nói cho cha anh biết
là: không phải anh kể công những điều anh đã làm, nhưng anh cảm thấy anh thiếu
thốn cái gì ấy. Anh đau khổ vì bệnh tự kỷ ám thị !
Quả vậy, người con cả
rất thực tế khi kết án tư cách của người em đã “tiêu sài hết tiền bạc của cải với
bọn đĩ điếm” (c.30). Trước hai nghịch cảnh đó, thiên hạ sẽ nghĩ sao, đồn đãi gì về đứa con út của ông chủ trại đi
hoang, nay tàn tệ lại trở về với gia đình và xóm làng? Hay người
con cả chỉ biết nghĩ xấu cho em mình, cho hắn là loại người tồi tệ nhất với những
cáo buộc cay đắng nhất?
Người con cả đã nhất
quyết “đá văng em mình ra khỏi lòng mình” và cho rằng nó là “con của người cha
thôi”, không phải là em của mình. Đúng vậy, như chúa Giêsu đã từng nói: Bề ngoài
là con đấy, nhưng trong tâm thực sự lại không phải là con, như người anh cả đã
biểu lộ qua cử chỉ và tâm tư ý nghĩ của anh.
Giống như kiểu lý luận,
một người nghĩ là mình không có tự do, thì tự cảm thấy mình giống như nô lệ? Và
người nào sống trong gia đình với cha mình mà lại cảm thấy không vừa ý, coi mình
như người xa lạ, thì sẽ không cảm thấy mình là con, là người nhà ?
NỚI RỘNG PHẠM VI
Nhân mùa chay, tôi có
đọc một quyển sách nhan đề “Love Alone is Credible” của Hans Urs Von Balthasar
(Ignatius Press, 2004), thấy có ít lời khá ý nghĩa, đáng cho chúng ta suy nghĩ
nên xin được trích ra đây để bạn đọc cùng
đọc và suy niệm, nhân câu chuyện ngụ ngôn trong bài Phúc Âm hôm nay.
“Có lần kia, một người tìm học cách đọc những dấu hiệu của tình yêu và rồi
tin như vậy, tình yêu đã dẫn đưa anh ta vào khung trời rộng mở ở bất cứ đâu mà
anh ta có thể yêu.
“Nếu người con hoang đàng không tin rằng cha mình đã sẵn
sàng chờ đón hắn thì hắn sẽ không trở về -ngay cả khi cha hắn đón hắn một cách
mà hắn không bao giờ dám nghĩ tới.
“Vấn đề quyết định là người có tội đã nghe biết về tình yêu
là thứ có thể và thực sự đang dành cho hắn; Hắn không phải là người phải tự mình
đi đến để đứng vào hàng ngũ với Thiên Chúa; Thiên Chúa thì luôn luôn nhìn hắn
như một kẻ tội lỗi không có tình yêu, một đứa trẻ đáng được yêu và Ngài ngước mắt
nhìn hắn,ban cho hắn được ơn xứng đáng yêu dưới ánh sáng của tình yêu ấy”.
(p.103)
MỤC VỤ HÒA GIẢI LÀ BỔN
PHẬN CỦA CHÚNG TA
Bài đọc 2 thư thánh
Phaolo gửi giáo dân Corinthians (2Cr 5:17-21) tóm gọn một cách rất tài tình câu
chuyện ngụ ngôn Đứa Con Hoang Đàng. Thánh Phaolo cho biết cử chỉ hòa giải của
Thiên Chúa được thể hiện bằng nhiều cách, đúng như kiểu hành văn của ngài thật
uyển chuyển, tiến lui rất nhẹ nhàng từ hành động của Thiên Chúa đến công tác mục
vụ của chính ngài.
Nếu chúng ta hòa giải
được với Thiên Chúa, với chính chúng ta và với tha nhân, và rồi mang cái “tâm hòa giải” của mình và sự
hòa giải của Thiên Chúa áp dụng vào xã hội, trong cộng đồng của chúng ta, thì có
thể nói được chúng ta là sứ giả của Hoàng Tử Hòa Bình. Bởi vì Thiên Chúa đã sai
con một Người xuống trần để hòa giải với loài người thì Ngài cũng muốn chúng ta
bắt chước Người cải đổi thế gian cho mọi sự được hòa điệu giữa một thế giới đổ
nát, gia đình tang thương và Giáo Hội chia rẽ.
Chớ gì, Chúa Nhật 4 Mùa
Chay này, chúng ta là những người được tha thứ nhiều, hãy đến với những người
anh chị em, hàng xóm láng giềng, bạn bè, những kẻ tội lỗi, vui với họ, hân hoan
hòa giải cùng họ, tha thứ cho nhau trong bí tích hòa giải và bí tích Thánh Thể.
Trên đường hành trình
Mùa Chay đi về nhà Cha, chớ gì bài ca tạ ơn và niềm vui
hòa giải bùng lên
trong những tâm hồn hoang dại, sa mạc hận thù, lòng trai đá và ác quái của chúng
ta. Xin Thiên Chúa chỉ dạy chúng ta biết đọc và nhận ra những dấu chỉ của tình
yêu, biết vui trong lòng khi Lời Chúa đến với chúng ta trên đường đi tới hòa giải
và an bình.
ĐÔI LỜI KẾT: THIỆN
CHÍ HÒA GIẢI
Câu chuyện ngụ ngôn này
của thánh Luca có hai điểm đặc biệt: 1-Thiên Chúa hoan nghênh, đón chào những kẻ tội lỗi và những kẻ mà xã hội, tôn
giáo coi như không thể chấp nhận được. 2-Ca
ngợi, Vui mừng là những cử chỉ tiếp theo hành động đón chào. Đó là một hồi đáp
cho sự ăn năn thống hối mà Thiên Chúa luôn luôn mời gọi, khuyến khích mỗi người
chúng ta thực hành.
Người cha quảng đại hân
hoan đón chào đứa con hoang đàng, nhưng không từ bỏ người con cả, vẫn còn ở với
hắn và trung thành với hắn, yêu thương hắn, dù hắn đã phản đối tính nhân hậu của
mình. “ Con à! -Người cha nói với anh
ta- lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những
gì của cha đều là của con” (c.31). Sửa đổi em con là đứa “đã chết nay sống lại”, “đã mất nay tìm lại được”(c.32) không làm
giảm giá trị lòng trung thành của con đối với cha. Người em, nay được sát nhập
trở lại gia đình, phải khởi sự cuộc sống trung tín từ đầu. Người cha ở đây tượng
trưng cho Thiên Chúa. Hòa giải với người cha, tức hòa giải với Thiên Chúa, cả
hai người con phải dàn xếp với nhau và hòa giải với nhau trước.
Nguời anh sau cùng có
làm hòa với em mình và đón chào hắn trở về không? Anh ta có thực sự trong lòng
muốn tha thứ cho người em không? Có chia sẽ niềm vui hân hoan với cha mình không? Hay là, kết thúc
câu chuyện, anh ta cũng coi mình như người xa lạ còn hơn em mình nữa? Trong câu
chuyện này, người mẹ ở đâu? Phản ứng của người mẹ thế nào? Chúng ta chờ mong ở
kết thúc của câu chuyện, nhưng Chúa Giêsu đã không cho biết. Đó là tất cả câu
chuyện ngụ ngôn về người cha nhân lành. Nó mời gọi tất cả chúng ta đào sâu vấn đề
để tìm ra những giải đáp cho chính cuộc sống của chúng ta, ở thời đại của chúng
ta.
Câu chuyện “Người Con
Hoang Đàng” hay “Người Cha Nhân Hậu” hoặc “Người Anh Phẫn Nộ” có thể gây thắc mắc
cho chúng ta như là nó xẩy ra cho chính chúng ta vậy? Có phải người cha nhân lành
đã vung vãi tình yêu của mình vào những việc nhỏ nhặt, những cái ác quái, đa
nghi và kiêu hãnh của chúng ta? Bài học tha thứ !
Fleming Island,
Florida
March 11, 2013 –
NTC