CHÚA NHẬT XVII A THƯỜNG NIÊN
1V 3:5, 7-12; Rm 8:28-30; Mt 13:44-52 /
13:44-46
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Tranh:Viên ngọc quí của D. Bonnell / The Pearl of Great Price by Daniel
Bonnell
Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội đề cập đến
sự khôn ngoan Kito giáo. Khôn ngoan để nhân biết và tôn thờ Thiên Chúa để được
cứu rỗi và đạt Nước Trời. Hai bài đọc và bài Phúc âm hôm nay sẽ dẫn đưa chúng
ta vào ba chủ đề đó.
KHÔN NGOAN CỦA VUA
SOLOMON
Trong bài đọc 1 (1V 3:5; 7:12), chúng ta
nên để ý đến bối cảnh lịch sử của câu chuyện. Solomon lên làm vua Israel khi
còn rất trẻ, nhưng đã có đời sống công cộng và giao tế khá nổi tiếng. Còn trẻ
lại cứng đầu cứng cổ nhưng Solomon vẫn phủ phục trước mặt Thiên Chúa, vì ông
biết ông có thể sẽ sai lầm khi cai trị dân.
Biết mình có khuyết điểm, Solomon đã xin
Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan, nghĩa là xin có “tâm hồn hiểu biết”(3:9),
“biết lắng nghe một cách
thông minh, nhận thức rõ vấn đề để
vâng theo, phân biệt phải trái rõ ràng hầu đối sử thích đáng và khôn
ngoan”. Ông không xin giàu sang phú quí.
Solomon đã được toại nguyện (c.12).
Thiên Chúa đã ban cho ông trí thông minh hiểu biết, khôn ngoan và khéo léo, biết
phân biệt trắng đen và chú ý lắng nghe, chấp nhận và vâng lời Chúa. Thiên Chúa
đã ban cho ông, không chỉ điều ông xin mà cả những điều ông không xin như giàu
sang, phú quí, danh vọng. Sự khôn ngoan của Solomon quả là tuyệt vời đã khiến
dân Israel phải “kính sợ”, vì khôn ngoan của ông là do Thiên Chúa ban. Chúa
Giesu cũng đã nhắc đến sự khôn ngoan của Solomon: “…Và đây, còn lớn lao hơn
cả Solomon nữa” (Mt 12:42). Chúa ám chỉ Người là đức Kito con Thiên
Chúa.
XIN
ƠN KHÔN NGOAN THẾ NÀO
Chúng ta nên chú ý đến lời kinh của vua
Solomon. Khi xin Thiên Chúa điều gì, chúng ta phải tin là Người sẽ ban cho ta
điều ta muốn nhưng theo cách thức của Người. Khi nào chúng ta cần ơn khôn
ngoan? Phải chăng khi chúng ta mong được vâng lời, trông cậy vào Chúa đúng theo
nghĩa khôn ngoan của Chúa? Chúng ta có tin chắc là Chúa sẽ ban ơn cho chúng ta điều
ta xin không? Chúng ta có chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để đón nhận ơn Chúa
chưa?
TRỞ NÊN GIỐNG
HÌNH ẢNH CON CHÚA
Theo thánh Phaolo trong bài đọc 2 (Rm
8:28-30) thì ơn gọi làm người Kito hữu đã được tiền định như kiểu giống hình
ảnh con Chúa (8:29). Thiên Chúa cứu chuộc những kẻ tin Người đã được định từ
trước khi có thế gian và được Thiên Chúa biết và chọn từ trước (8:29-29). Con
người là hình ảnh Thiên Chúa (St 1:26-27) nay nhờ phép Thanh Tẩy, hình ảnh
Thiên Chúa (2Cr 4:4; Cl 1:15) được đổi mới lại (Cl 3:10). Tiền định không
có nghĩa Thiên Chúa là người trọng tài đứng đó bắt chúng ta phải làm theo mà
như Phaolo nói thì Thiên Chúa để ý và chăm lo cho chúng ta để cứu chuộc chúng
ta, đem chúng ta vào hưởng phúc đời đời nơi vương quốc Thiên Chúa.
LÀM SAO ĐỂ NHẬN
RA VƯƠNG QUỐC?
Nước Trời được chúa Giesu diễn tả dưới
nhiều dạng thức: người chăn chiên và chiên lạc ( Mt 18:12-14), người
đàn bà mất đồng bạc (Lc15:8-10), người cha mất con (Lc 15:11-24)
Nước trời đến với chúng ta như khi chúng
ta đi tìm những cái chúng ta đã mất. Chúa Giesu tuyên bố khi khởi đầu sứ vụ: “Nước
trời ở trong tầm tay”. Nhưng các môn đệ chẳng hiểu gì nên hỏi: “Khi nào
thì nước trời đến? Làm sao chúng tôi nhận ra được nó?” Chúa trả lời là khó
có thể nhận ra được nước trời bằng con mắt thế tục. Chúa lại nói nước trời đang
“ở trong tầm tay” nghĩa là nó rất gần và sẽ đến bất ngờ. Người
biểu lộ nước trời dưới hai hình thức: Phép
lạ để chứng tỏ uy quyền Chúa vượt trên ma quỉ; dụ ngôn là những sứ điệp về nước trời.
NHỮNG DỤ NGÔN VỀ
NƯỚC TRỜI
Để hiểu ý nghĩa những dụ ngôn, chúng ta
phải để ý đến khung cảnh lịch sử của câu chuyện. Thời đức Giesu, người
Palestine thường hay chôn dấu dưới đất những vật quí giá (Mt 13:44). Hai chuyện đầu trong số ba
dụ ngôn trong Mathieu (Mt 13:44-52) đều có cùng một đặc điểm, người thấy kho
tàng chôn ở dưới đất và người lái buôn thấy ngọc quí đã về bán tất cả những gì
họ có để mua cho được những thứ họ vừa khám phá ra. Tương tự như vậy, ai hiểu
được giá trị cao quí của nước trời thì sẽ bỏ hết mọi sự mình có để đạt cho
được. Sự vui mừng của họ đã biểu hiện rõ ràng trong hai dụ ngôn đầu. Kết luận dụ
ngôn lưới cá (Mt 13:47-50) và chuyên hạt giống bị ngộp (Mt 13:18-23) là những
kẻ tội lỗi gian ác cuối cùng sẽ bị loại ra khỏi nước trời.
NHỮNG QUAN NIỆM
VỀ NƯỚC TRỜI
Hiện nay có người quan niệm vương quốc
Thiên Chúa không phải là một thực tế riêng biệt vượt lên trên mọi truyền thống
và kinh nghiệm tôn giáo, nhưng là một nhân vật có danh xưng diện mạo rõ ràng là
Đức Giesu thành Nazareth, hình ảnh của Thiên Chúa vô hình.
Chúng ta không thể đóng khung mặc khải Kito giáo và sự truyền đạt của Giáo Hội
bằng một cái nhìn không phải là Kito giáo, vì đã hiểu sai danh từ “Vương Quốc”
hay “Nước Thiên Chúa” rồi thay thế bằng đức Giesu Kito và Giáo Hội của
người.
Để hiểu rõ ràng bài Tin Mừng hôm nay,
chúng ta nên coi lại phần tài liệu chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng Các Giám Mục về
Tân Phúc Âm hóa vào tháng 10 năm 2012.
Đoạn #24 Tân Phúc Âm hóa:
Một viễn kiến về Giáo Hội hôm nay và ngày mai
“Hiện nay chúng ta đang đối diện với
những dấu chỉ thay đổi lớn lao, thường gây ra bắt bớ và sợ hãi. Tình trạng này
đòi hỏi chúng ta phải có một viễn kiến mới, để chúng ta nhìn về tương lai với con
mắt đầy hy vọng, không còn than khóc và chán nản. Như “Giáo Hội”, chúng ta đã
có viễn kiến đó rồi, chính là Vương quốc Nước Trời đang đến, được loan báo cho
chúng ta bởi đức Kito và được diễn tả trong những dụ ngôn của Người. Vương quốc
này đã được chuyển tải cho chúng ta qua giáo huấn của đức Giesu, và trên tất
cả, qua cái chết và phục sinh của Người. Ngoài ra, đôi khi chúng ta cảm thấy
không có khả năng tạo ra được cái viễn kiến ấy, nói cách khác, không thể biến
nó “thành của mình” và “mang nó vào cuộc sống” cho chính chúng ta và những
người chúng ta gặp hàng ngày và biến nó thành nền tảng của đời sống Giáo Hội và
tất cả những hoạt động mục vụ của nó.”
Đoạn #25: Niềm vui khi rao
truyền Tin Mừng
“Tân phúc âm hóa có nghĩa là chia sẻ
những ước vọng sâu xa về ơn cứu chuộc thế giới, đồng thời biến niềm tin của
chúng ta thành dễ hiểu bằng cách truyền đạt những danh hiệu hy vọng (1Pr 3:15).
Thời đại ngày nay, nhân loại cần hy vọng để sống. Nội dung của niềm hy vọng này
là “Thiên Chúa, đấng có diện mạo loài người và là đấng ‘yêu thương chúng ta đến
tận cùng’.” Vì lý do đó, Giáo Hội, tự bản tính, là truyền giáo. Chúng ta không
thể ích kỷ giữ riêng lấy cho mình lời hằng sống mà chúng ta đã nhận được khi
tiếp cận với đức Giesu Kito. Những lời đó đã được tiền định cho từng người và
tất cả mọi người. Mỗi người chúng ta ngày nay, dù biết hay không biết nó cũng
cần phải tuyên xưng nó.
“Không nhận biết nhu cầu đó là tự tạo ra
sa mạc và trống rỗng. Thật ra, những trở ngại của việc tân phúc âm hóa rõ ràng
là thiếu sót niềm vui và hy vọng trong dân chúng, nó phát xuất ra và lan rộng
là do nhiều hoàn cảnh khác nhau trong thế giới ngày nay. Lắm khi sự vắng bóng
niềm vui và hy vọng này trầm trọng đến độ nó ảnh hưởng cả chính giá trị nội
dung của cộng đồng Kito hữu của chúng ta. Đó là lý do cần phải kêu gọi làm sống
lại việc tân phúc âm hóa, không đơn giản chỉ là thêm trách nhiệm mà còn phải có
phương cách tái tạo lại niềm vui và cuộc sống trong những hoàn cảnh đang giam
hãm mình trong sợ hãi.
“Vì vậy, khi bàn về việc tân phúc âm
hóa, chúng ta phải hân hoan vui mừng. Chúng ta sẽ học hỏi cách rao truyền phúc
âm với niềm vui sảng khoái và dịu dàng, ngay cả những lúc việc tuyên xưng của
chúng ta xem ra giống như gieo hạt giống trong nước mắt (Tv 126:6). “Chớ gì,
đối với chúng ta, nó có ý nghĩa –như đối với Gioan Tiền Hô, Phero và Phaolo và
các tông đồ khác cũng như biết bao nhiêu vị từng rao truyền Tin Mừng xuyên suốt
giòng lịch sử Giáo Hội- là niềm hăng say đầy nhiệt huyết không một ai, bất cứ
cái gì có thể làm suy giảm được. Chớ gì nó là niềm vui vĩ đại của cuộc sống tận
hiến của chúng ta. Và chớ gì thế giới của thời đại chúng ta -đang tìm kiếm, đôi
khi với khổ não, đôi khi với hy vọng- khả dĩ có thể nhận được Tin Mừng không
phải do những vị rao truyền tin mừng bị từ chối, bị nản chí, mất kiên nhẫn hoặc
lo lắng áy náy, nhưng do những thừa tác viên Phúc Âm có cuộc sống sáng ngời với
nhiệt thành, những người đã nhận niềm vui của đức Kito trước tiên, và những
người tự nguyện liều mạng để vương quốc nước trời được tuyên xưng và Giáo Hội được
thiết lập giữa lòng thế giới.”
Fleming Island, Florida
July 23, 2020
NTC