CHÚA NHẬT III C THƯỜNG NIÊN
Nhm 8:2-4a, 5-6, 8-10. 1Cr 12:12-30/12:12-14, 27. Lc 1:1-4;
4:14-21
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Niềm tin là sức sống, là
sức mạnh, là hy vọng. Không có niềm tin con người không thể tồn tại được. Do đó,
muốn sống phải có niềm tin. Niềm tin mang lại tương lai sáng lạng và niềm vui
khôn nguôi. Chúa nhật hôm nay Bài Tin Mừng nói về Niềm Tin đã mất của người Do
Thái trong thời kỳ bị lưu đầy. Nay Chúa cho họ trở về xum họp nơi đất tổ hẳn
chẳng có niềm vui nào to lớn bằng. Vui nhưng vẫn cần sức mạnh để vươn lên. Hãy
làm sống lại niềm tin để có sức mạnh tái tạo cuộc sống, Giáo Hội và đất nước.
LỜI CHÚA
LÀ SỨC MẠNH VÀ NIỀM VUI
Bài đọc 1 hôm nay trích
sách Nehemiah nói về sự tái tạo cộng đồng Do Thái sau thời kỳ bị lưu đầy và đền
thờ Jerusalem bị phá hủy. Đây là câu chuyện
nói về những bước khởi đầu của một cộng đồng đầy hy vọng, mặc dù có rất nhiều
khó khăn trước mặt. Thầy cả Ezra và giáo dân Nehemiah[1] đã
sống vào thời kỳ dân Israel trở lại đất tổ sau những năm tháng tù đày ở Babylon.
Đây là thời kỳ tái tạo vì người dân đã mất hết niềm tin do bị thất lạc không còn
nối kết với nhau được.
Ezra và Nehemiah đã đưọc
Thiên Chúa ủy thác để nhắc lại cho dân những điều họ đã mất để tạo dựng lại cộng
đồng, một lần nữa truyền cho họ những lý tưởng cao cả về niềm tin của dân Do
Thái, để họ bắt đầu lại cuộc sống mới lành mạnh về tôn giáo và xã hội.
Quang cảnh sống động của
bài đọc I hôm nay là lúc nhắc lại những luật lệ căn bản của đời sống cộng đồng.
Dân chúng tụ họp lắng nghe tuyên cáo này trong bầu khí linh thiêng và cảm động.
Có người đã bật khóc vì sung sướng được tự do nghe lời Chúa sau thảm cảnh
Jerusalem bị phá hủy và lịch sử ơn cứu độ nay bắt đầu trở lại. Tuy nhiên
Nehemiah đã cảnh cáo họ đây chỉ là ngày lễ hội. Để Chúa ban sức mạnh cần phải
biết cám ơn Chúa vì những ơn Chúa ban, và phải lắng nghe Lời Chúa và thực hành
bởi vì Lời Chúa chính là sức mạnh và niềm vui.
Vậy trước quang cảnh vĩ
đại này chúng ta phải làm gì? Bài đọc này chính là lời kêu gọi mỗi người chúng
ta, đặc biệt những thừa tác viên mục vụ, phải cám ơn Chúa vì Người đã không
quên chúng ta, lại ban cho chúng ta đủ thứ, đồng thời cũng nên cám ơn tất cả
những ai đã từng cộng tác với mình hàng ngày trong việc tái tạo nền móng đức tin
của chúng ta và Giáo Hội.
KẾ HOẠCH
MỤC VỤ CỦA THÁNH LUCA
Tin Mừng Luca là
phúc âm duy nhất trong bốn phúc âm thư có lời mở đầu (Lc 1:1-4). Thánh Luca đã
nhận thức được là ngài mắc nợ những người đã chứng kiến từ đầu và những người
phục vụ Lời Chúa, nhưng ngài quả quyết là những đóng góp của ngài thì đầy đủ và
chính xác -đã được kể theo thứ tự- và chắc chắn là có ý cung cấp cho Theophilus
(bạn của Chúa) và những độc giả khác những giáo huấn mà họ đã nhận được trước
đây. Luca đã không nói là những điều họ học được lúc đó là sai lầm, nhưng công
nhận và quả quyết với họ là vì niềm tin và ước nguyện của họ muốn được biết thêm
về chúa Giêsu, và ngài đã xếp đặt mọi sự cho có thứ tự thời gian để niềm tin của
họ được mạnh mẽ hơn. Kế hoạch mục vụ như vậy cũng vẫn có nhiều hiệu quả trong
việc truyền đạt niềm tin ở thời đại ngày nay.
CẬU BÉ
TRỞ VỀ TỈNH NHÀ
Luca không phải là thánh
sử duy nhất đã ghi lại việc Chúa Giesu trở về thăm Nazareth, nơi Người đã được
nuôi dưỡng và lớn lên (Lc 4:16). Hai thánh Marco và Mathiêu cũng viết về giai
đoạn này nhưng không nêu tên Nazareth mà nói là “tỉnh nhà” (Mc 6:1; Mt 13:54).
Tuy nhiên có nhiều khác biệt giữa câu chuyện của Luca và của Macco và Mathiêu.
Mac cô nói chúa trở về không phải lúc người khởi đầu sứ vụ, nhưng sau một thời
gian dài rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh và bàn cãi về những dụ ngôn (Lc
4:1-34) và làm phép lạ cho con gái ông Jairus sống lại (Lc 8:40-55). Mathiêu thì
nói chúa Giêsu cũng đã loan báo sứ vụ của Người cho “12 tông đồ” (Lc 10:2-42; Mt
10:1-16).
Luca đã sắp đặt những câu
chuyện này lúc khởi đầu sứ vụ của chúa. Thoạt nhìn chúng ta tưởng là thánh Luca
có ý sửa lại thời biểu của thánh Macco và Mathiêu. Nhưng chi tiết câu chuyện của
ngài cho thấy ý nghĩ đó không đúng vì khi chúa Giêsu giảng dạy, Người nói là dân
thành Nazareth sẽ nói với Người là: “Chúng tôi đã nghe biết tất cả những điều
này ở Capernaum rồi, bây giờ hãy làm như vậy ở tỉnh nhà của ông xem sao” (Lc
4:23). Điều này cho thấy trước khi về Nazareth, chúa Giêsu đã bắt đầu sứ vụ
ở Capernaum và đã gây rất nhiều ngạc nhiên nơi dân chúng đến độ tiếng vang đã
bay về tới Nazareth.
GIÂY
PHÚT BẤT NGỜ
Chúa Giesu đã gây nhiều
bất ngờ cho mọi người trong nhà hội ở Nazareth. Chúa mở sách ngôn sứ Isaiah và
đọc chương 61. Bản văn này đã lấy ra từ tập thơ nói về những ngày sau cùng, báo
trước dân thành Jerusalem sẽ được cứu rỗi, biểu tượng canh tân của dân Israel.
Khi những lời này được nói ra từ chính miệng chúa Giêsu thì rõ ràng Người tự
nhận mình là ngôn sứ thiên sai của thời cánh chung. Những lời này cũng cho mọi
người biết sứ mệnh của Người là loan báo Tin Mừng, giải phóng tất cả mọi người
nam cũng như nữ và nói cho họ biết về ân sủng của Thiên Chúa. Do đó toàn thể sứ
vụ của Chúa Giêsu phải được hiểu theo viễn tượng này.
Mở sách Isaiah ra, Chúa
thấy ngay chỗ viết: “Thần khí Chúa đã ở trong tôi!” (Lc 4:16-18; Is
61:2). Rất đặc biệt, giòng cuối cùng chúa Giêsu đọc là: “công bố hồng ân một
năm của Chúa”(Lc 4:19;Is 61:2), và tiếp liền sau đó là một tuyên cáo rất rõ
ràng về sứ điệp của chúa Giesu: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị
vừa nghe”. Cách nói của Isaiah (61:2) “năm hồng ân của Chúa” rõ ràng
ám chỉ một mệnh lệnh được ghi trong Sách Leviticus về năm Thánh Toàn xá (Lv
25:10-13).
Khi kể lại câu chuyện
chúa Giêsu ở trong hội trường, Luca đã không trích lại toàn thể câu văn của
Isaiah. Động từ “công bố” trong câu văn của Isaiah có hai túc từ (xem Is
61:2), Luca chỉ trích có túc từ thứ nhất là “hồng ân một năm của Chúa”
mà quên túc từ thứ hai là “Ngày báo thù cho Chúa chúng ta”. Lời
tiên tri của Isaiah báo trước là Thiên Chúa sẽ can thiệp ở hai phương diện, một
là giải phóng dân Do Thái, hai là trừng phạt kẻ thù của họ. Tin Mừng không nói
tới phần chống đối của kẻ thù. Sự bỏ sót này rõ ràng cho thấy hai hậu quả: 1-
thông điệp không có tính tiêu cực, và 2-ẩn tàng tính phổ quát. Cũng không thấy
có gì ám chỉ phân biệt giữa dân Do Thái và không phải Do Thái. Sự mở rộng phổ
quát là đặc tính chính của sứ vụ rao giảng của chúa Giêsu, nhất là trong Tin
Mừng Luca và Tông Đồ Công Vụ.
Kết thúc bài Tin Mừng hôm
nay chúa Giêsu nói với khán thính giả rằng Người là đấng kiện toàn lời tiên tri
Isaiah, hay nói cách khác lời tiên tri Isaiah “hôm nay” đã ứng nghiệm. Do đó
Chúa Giêsu đã nói cho chúng ta biết buổi khánh thành sứ vụ công khai của Người
đánh dấu ngày đầu của thời cánh chung, đồng thời cũng là bước đầu công cuộc cứu
độ của Thiên Chúa trong lịch sử loài người. Sự tương đồng giữa lời Chúa Giêsu và
lời tiên tri Isaiah quả rất thích hợp với sứ vụ của Chúa Giêsu; Người đã nhắc
nhở chúng ta là lịch sử không che dấu những vinh quang khải hoàn và cả tai họa,
sự trung thành và bất trung của Israel qua mọi thời đại mà còn làm cho họ nổi
bật lên.
Giờ của Chúa Giêsu đã đến
để Người nắm lấy lịch sử trong tay Người, để đối đầu với nó bằng chính thân xác
Người, để Người làm một cái gì khác thường, và để nhắc nhở mọi người rằng Thiên
Chúa đã không bỏ những kẻ than khóc, những kẻ hy vọng, những kẻ đau khổ và những
kẻ ước mơ. Thiên Chúa sẽ hoàn thành những điều đó trong chính con một Người là
đấng đã đang đứng giữa hội trường Nazareth. Qua quyền lực của chúa Thánh Thần,
chúa Giêsu đã hoàn chỉnh lời tiên tri Isaiah, mang lại tin vui và tuyên bố trả
tự do cho những kẻ bị cầm tù. Không phải tất cả mọi người sẽ chấp nhận Tin Mừng
này như phần còn lại của bài Phúc Âm cho chúng ta thấy.
NHÀ
GIẢNG THUYẾT THẤT BẠI
Nếu đọc tiếp câu
chuyện Phúc Âm hôm nay, chúng ta sẽ nhận ra được bầu khí náo loạn, kinh hãi và nghi hoặc,
biến thái rất nhanh khi mà Chúa Giêsu Nazareth không nói những lời mà dân địa
phương muốn Người nói. Sau khi chúa Giêsu đưa ra 4 điểm chính của chương trình
sứ vụ của Người trong hội trường ở Nazareth (Lc 4: 16-21), đám đông trở nên ồn
ào, tỏ vẻ ganh tị và muốn đưổi Chúa ra khỏi đó (Lc 4:22-30). Chúa Giêsu đã không
thành công trong việc làm cho họ nghe và hiểu Người để rồi phải vội vã ra đi…..để
thoát thân (Lc 4:30).
Những hình ảnh đầu tiên
trong sứ vụ của Chúa Giêsu là hình ảnh một người thất bại, chẳng ai thèm để ý
tới và hưởng ứng. Dân thành Nazareth thì từ chối không chịu nghe sứ điệp về giải
phóng, tự do và hoà giải. Họ đã nghe những điều tương tự như vậy nhưng hoàn toàn
với thái độ và màu sắc riêng của họ.
LỜI KẾT:
ĐÁP ỨNG LỜI CHÚA
Giống như dân Israel
trong bài đọc I tụ tập quanh thầy cả Ezra và lắng nghe lời Chúa với nỗi niềm xúc
động khôn tả (Ne 8:5), chúng ta, cũng đứng nghe sứ điệp sống của Chúa và cảm
thấy Người hiện diện trong đó và trong mỗi một nghi thức phụng vụ. Ezra chúc
tụng Thiên Chúa vĩ đại cao cả và tất cả dân đều giơ cao hai tay thưa “Amen!
Amen!”(Ne 8:6). Với tiếng Amen kết thúc mỗi kinh đọc lúc viếng Mình Thánh Chúa,
chúng ta nhận thức được Chúa Giesu Kito hiện diện thực sự trên bàn thờ, Chúa là
Lời hằng sống và vĩnh cửu của Thiên Chúa Cha.
Với dân chúng tụ tập
trong hội trường Nazareth, chúng ta cũng nhìn thấy Chúa Giesu Kito và nghe Lời
Chúa ứng nghiệm trong chính con người Chúa. Lời bằng xương bằng thịt thực sự. Để
đáp ứng lời tuyên xưng này, chúng ta đọc lớn “Amen”, “Tôi Tin!”
Chớ gì Thần Linh Thiên
Chúa xức dầu chúa Giêsu cũng xây đắp chúng ta thành một thân xác và gửi chúng ta
đi muôn nơi để tuyên xưng tự do và hồng ân Thiên Chúa cho muôn dân. Niềm Tin.
Fleming Island, Florida
Jan. 2019
________________
[1] EZRA là
luật sĩ và tư tế / thầy cả được vua Ba Tư Artaxerxes gửi đi lãnh đạo dân Do Thái
bị lưu đầy ở Babylon về Jerusalem với quyền hạn cả về tôn giáo lẫn chính trị.
Ông cùng với Zerubbabel và Jeshua từ Babylon trở về Jerusalem (Neh 12:1,12;
Azariah 10:2). Ông là tư tế từng tham dự lễ tái cung hiến tường thành Jerusalem
(Neh 12: 33).Có người cho là Ezra và Nehemiah là những cộng sự viên, nhưng không
chắc cho lắm (Neh 8:9; 12:26,36).
NEHEMIAH là con trai
Hacaliah (Neh 1:1), là tổng trấn/Thống đốc Jerusalem, thủ lãnh dân Israel thời
sau lưu đầy. Ông trở về Jerusalem cùng với Zerubbabel từ Babylon sau khi bị cầm
tù vào năm 538 B.C.E. (Ezra 2:2; Neh 7:7).