CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN B
Kn 7: 7-11; Dt 4: 12-13; Mc 10: 17-30 / 10: 17-27
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
“Đức Giêsu vừa lên đường, thì
có một người chạy đến quì xuống trước mặt Ngài và hỏi: ‘Thưa Thầy nhân lành, tôi
phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?’. Đức Giêsu đáp: ‘Sao anh
nói tôi là nhân lành? Không có ai là nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn
anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm
chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ’. Anh ta nói:’Thưa Thầy, tất cả
những điều đó tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ’. Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem
long trìu mến. Ngài bảo anh ta:’Anh chỉ thiếu có một điều là hãy đi bán những gì
anh có mà đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tang trên trời. Rồi hãy đi
theo tôi’. Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó, và buồn rấu bỏ đi, vì anh ta có
nhiều của cải……….”. (Mc 10: 17-30)
CÂU CHUYỆN ƠN GỌI
Câu chuyện một người đến gặp
Chúa Giêsu để hỏi về sự sống đời đời thực sự là câu chuyện về ơn gọi
(Mc.10:17-30). Đây là câu chuyện duy nhất trong Tin Mừng Mác Cô nói về một người
được Chúa gọi đã đáp lại lời Chúa không phải là bước theo Chúa mà là đi xa khỏi
Chúa.
Câu chuyện này được kể lại cả
trong Ba Tin Mừng Nhất Lãm. Thánh Mathêu (Mt 19:16-22) cho biết người đó là một
thanh niên. Thánh Lu Ca (Lc 18: 18-23) cho biết ngưới đó là một lãnh tụ. Cả ba
thánh sử đều đồng ý người đó giầu có, nhưng chỉ riêng Mac cô mới nêu rõ cái ưu
tư của người đó “…tôi phải làm gì để có được đời sống vĩnh cửu làm gia nghiệp!”.
Ý NGHĨA CỦA ƠN GỌI & ĐỜI SỐNG VĨNH
CỬU
Chúng ta thử phân tích đoạn
Tin Mừng này của thánh Mac Cô (Mc 10: 17-30). Chúa Giêsu cắt nghĩa chữ ‘Nhân
Lành’ chỉ để dùng riêng cho Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự tốt lành và chỉ
một mình Thiên Chúa mới có thể ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu.
Phải chăng đòi hỏi mà Chúa
muốn chúng ta phải có để được hưởng đời sống vĩnh cửu chính là những hướng dẫn
mà Chúa đã chỉ cho người thanh niên giàu có? Chúa Giêsu có thực sự không đòi hỏi
các môn đệ khác của ngài phải bán tài sản của họ đi không? (1Tm 6: 117-19). Ông
Phêrô đã không giữ lại cái nhà và chiếc ghe của ông đấy sao? (Mc 1: 29; Ga
21:3). Phải chăng những người phụ nữ ở Galile đã đi theo giúp đỡ Chúa Giêsu
cũng không trở lại nhà để lấy vàng bạc và đồ trang sức của mình như ông Giuse
thành Arimathea đã làm hay sao? (Mc 15:41,43)
Trường hợp người thanh niên
giàu có này, chúa Giêsu đã đưa ra lời mời gọi rất cá biệt với những lý do rất
đặc biệt và rõ ràng. Tại sao người thanh niên này lại cảm thấy lời yêu cầu của
Chúa quá khó khăn không thể làm được? Bởi vì anh ta có nhiều của cải vật chất.
Khi thấy người thanh niên buồn rầu bỏ đi thì Chúa nói “Người giàu khó có thể
vào được nước Thiên Chúa !” (c.23)
Điều khác biệt là trong Cựu
Ước, sự giàu sang và của cải vật chất dư thừa lại được coi là dấu chỉ ân huệ
Chúa ban (G 1: 10; Tv 128: 1-2; Is 3: 10). Những người Do Thái mộ đạo cũng tin
rằng giàu sang phú quí là dấu hiệu Chúa chúc lành và những người giàu có là
những người được Chúa chúc phúc, trái với những kẻ nghèo khó là những kẻ coi như
bị Chúa chúc dữ.
CỦA CẢI VẬT CHẤT VÀ QUYỀN LỰC
Những lời Chúa Giêsu nói với
người thanh niên (Mc 10: 23) đã làm cho các môn đệ ngỡ ngàng vì nó trái với quan
niệm nói trong Cựu Ước (Mc 10: 24-26). Sự khác biệt là giàu có vật chất, quyền
lực và công trạng chỉ cho chúng ta sự an toàn phù phiếm, nay còn mai mất, nên
Chúa Giêsu đã bác bỏ chúng hoàn toàn mà tuyên bố nếu ai ôm lấy những thứ phù du
đó thì không thể vào được nước trời. Sự chọn lựa tiêu cực của người thanh niên,
bỏ Chúa bước đi nói lên cái thực tế ở đời. Nó cho thấy của cải, tiền bạc, danh
vọng cũng làm cản trở việc lãnh đạo của các mục tử trrong việc điều hành Giáo
Hội, giáo phận và giáo xứ cũng như công việc truyền giáo. Chúa Giêsu dùng hình
ảnh người thanh niên buồn rầu bỏ đi để cho các môn đệ một bài học về cái tác hại
và nguy hiểm của tiền bạc, quyền lực và danh vọng. Tách rời khỏi những sở vật đó
là những đòi hỏi cần phải có để là môn đệ thực sự của Chúa, bởi vì những quyến
rũ đó sẽ bó chặt tâm trí chúng ta với thế gian, khiến lòng trí chúng ta luôn
luôn ở trong nó và chỉ nghĩ tới giá trị phù du hơn là giá trị thực.
Chúa Giêsu đã đảo ngược lại
hoàn toàn những gì mà các môn đệ và những người Do Thái tốt lành đã được dạy
bảo. Nhưng đối với họ, lời dạy của Chúa về sự giàu sang phú quí thì quả là khó
hiểu. Khi Chúa nói “ Khó khăn biết bao cho những kẻ nhiều tiền lắm của vào
được Nước Thiên Chúa!”, lúc đó Phúc Âm kể lại là “Các môn đệ rất đỗi ngạc
nhiên, sửng sốt và nói với nhau, ‘vậy thì ai có thể được cứu rỗi đây?’”
(c. 23, 26).
Bất cứ ai trong chúng ta cũng
có thể đặt một câu hỏi tương tự như vậy. Chúa Giêsu đã nhắc nhở các ông rằng sự
cứu rỗi là một tặng phẩm Chúa ban. Ân sủng chính là một quà tặng của Chúa và chỉ
có những ai mà bàn tay trống rỗng, chẳng vướng bận gì là của riêng mình thì mới
có thể thoải mái đưa ra để đón nhận ân sủng đó. Việc hoàn thành ơn cứu rỗi thì
vượt quá khả năng của con người và hoàn toàn phụ thuộc vào lòng tốt và khoan
dung của Thiên Chúa là đấng ban phát ơn tặng ấy (Mc 10: 27).
SỰ MÂU THUẪN Ở KITO GIÁO
Nơi nhiều xã hội, sự giàu
sang được coi là dấu chỉ Chúa thương, và nghèo khó khốn khổ lại là biểu hiệu
Chúa ghét bỏ. Mọi Kitô hữu đều được khuyến khích tuân theo giáo huấn của chúa
Giêsu, nhưng giá trị của xã hội lại ở chỗ giàu sang, có nhiều của cảỉ vật chất
như có nhà cao cửa rộng, xe Mercedes, BMW hai ba chiếc, trong băng có bạc triệu,
đầu tư nhìều nơi, lại có chức quyền cao sang được mọi người kính trọng nể vì .…
Khi mà hệ thống tư bản hoàn
toàn do thị trường lèo lái, duy vật chất mà không có trái tim, không còn tấm
lòng và tình thương yêu thì nó sẽ đi ngược lại với giáo huấn của Chúa Giêsu nói
trong Tin Mừng. Phúc Âm Chúa khuyến khích nên có “sự giàu sang phú quí của
Tin Mừng”. Chúa không chống lại sự giàu sang vật chất, nhưng ngài kết án
những kẻ cứ bám chặt lấy tiền tài, danh vọng đến độ trở thành nô lệ. Trái lại,
nó sẽ trở thành ơn phúc khi nó được đem chia sẻ với mọi người, và không trở
thành nô lệ hoặc nhà tù giam hãm những kẻ ham của cải vật chất mà thiếu khôn
ngoan không biết đem nó chia bớt cho những người cần thiết và kẻ nghèo khó khốn
cùng.
Khi Chúa Giêsu nhìn vào chàng
thanh niên giàu có thì ngài cũng nhìn vào mỗi người chúng ta với lòng trìu mến.
Chúa nhắc nhở chúng ta phải làm “một điều nữa” là để cho cái nhìn trìu mến ấy
của Chúa thấm nhập vào tâm can chúng ta để không như chàng thanh niên giàu có,
chúng ta mở rộng lòng đón nhận lời Chúa hầu biến đổi cuộc sống chúng ta, phá bỏ
những giá trị phù phiếm trần thế và sắp đặt những ưu tiên giá trị vĩnh cửu cho
cuộc sống tâm linh của chúng ta.
Khi nghe Chúa đưa ra những
đòi hỏi như vượt quá sức con người, rất nhiều môn đệ đã bỏ ngài. Chúa đã hỏi
những môn đệ còn lại: “Các anh cũng tính ra đi hay sao?” Phêro
trả lời: “Lạy Chúa, chúng con sẽ đi theo ai? Chúa chính là Lời Hằng Sống”(Ga
6: 67-68). Và họ đã chọn ở lại với Chúa vì Thầy của họ đã có “Những Lời
Hằng Sống”, là những lời hứa hẹn một sự vĩnh cửu, đã cho họ đầy đủ ý
nghĩa để sống bây giờ và mãi mãi.
KHÔN NGOAN VÀ HẠNH PHÚC
Vua Solomon là người khôn
ngoan đúng nghĩa khôn ngoan như diễn tả trong bài đọc I (Kn 7: 7-11) đã nhận
thức rằng chỉ có sự khôn ngoan thực mới có thể mang lại hạnh phúc. Ông cầu
nguyện để xin Chúa ban sự khôn ngoan và chỉ xin khôn ngoan thôi. Ông không xin
quyền lực, giàu sang phú quí hay sức khỏe…, nhưng Chúa đã ban cho ông tất cả mọi
sự.
Đối với chúng ta, khôn ngoan
đã trở thành người và tên người đó là Giêsu. Khôn ngoan đã sinh ra trong máng cỏ
và chết trên thập giá. Ỡ giữa hai điểm đó, chúng ta chỉ có một cơ hội duy nhất
lấp cho đầy để nối hai điểm lại nếu chúng ta biết theo Chúa và sống cuộc sống
tình yêu vô vị lợi.
Khi nhìn lên Chúa Giêsu,
chúng ta nhận ra được thế nào là ý nghĩa của nghèo khó mà tâm hồn vẫn hiền dịu
và quảng đại, thế nào là ý nghĩa của than khóc, của ưu tư mà vẫn lo chăm sóc
người cần phải chăm sóc, hiểu được thế nào là tâm hồn trong sáng biết sống hài
hòa với mọi người, và thế nào là ý nghĩa của đau buồn khi bị truy nã đầy đọa. Vì
thế Chúa hẳn có lý khi nói với mỗi người chúng ta là: “Hãy đến và theo Ta!”
Chúa không đơn giản nói rằng: “Hãy làm những điều
Ta nói”. Nhưng Chúa nói: “Hãy đến và theo Ta!” Sau cùng, Chúa Giêsu
nhìn thẳng vào mỗi người chúng ta với ánh mắt trìu mến và nhắc nhở chúng ta là
cuộc sống phải đầy đủ và trọn vẹn, không phải là cố đắp cho đầy của cải vật chất,
tiền bạc, danh vọng và quyền uy lẫy lừng, nhưng cũng phải biết để cho mọi sự nó
qua đi bằng cách chia sẻ với tha nhân.
Lúc khởi đầu, sự mời gọi của
Chúa làm chúng ta ngạc nhiên, khó chịu, bị chạm và gây buồn phiền. Nhưng rồi với
ơn Chúa, chúng ta nhận ra được Lời Chúa là lời hằng sống và có hiệu lực sắc nhọn
hơn bất cữ lưỡi kiếm thần kỳ nào khác, có thể đâm thấu tim gan chúng ta đến cả
xương tủy và có khả năng phân biệt giữa suy tư và tư tưởng còn ẩn kín trong tâm
(Dt 4: 12-13). Hy vọng chúng ta sẽ không bỏ Chúa ra đi mà lòng buồn nặng chĩu.
ĐÔI LỜI KẾT: ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG THƯỜNG NHẬT
Tiếp theo bài Tin Mừng hôm
nay của thánh Mac cô, chúng ta cùng nhau suy gẫm và thực thi ba lời giáo huấn
quan trọng của truyền thống Công Giáo được nói tới trong Sách Giáo Lý Công Giáo
và tông thư Bác Ái Trong Sự Thật/Caritas in Veritate của Đức Thánh Cha Biển Đức
XVI.
1. Sách Giáo Lý dạy (câu
2404-2405): Khi sử dụng những tài sản mình sở đắc cách hợp pháp, con người
không được coi đó như chỉ thuộc riêng về mình, mà còn phải coi đó như những tài
sản chung, theo nghĩa những tài sản đó không những mang lợi ích cho mình mà còn
cho người khác nữa. Quyền tư hữu làm cho người sở hữu tài sản trở thành người
quản lý của Chúa quan phòng, lo sinh hoa lợi với tài sản của mình và thông ban
phúc lợi cho tha nhân, trước hết là thân nhân của mình.
Những tài sản sản xuất, vật chất
hoặc tinh thần, như đất đai và nhà máy cơ sưởng, các sở trường và tài nghệ buộc
những người sở hữu phải làm sao để hoa trái của các tài sản đó sinh lợi ích cho
nhiều người. Những người sở hữu các tài sản tiêu thụ và sử dụng cũng phải sử
dụng chúng một cách tiết độ, dành một phần tốt cho lữ khách, cho bệnh nhân và
cho người nghèo.
2. Sự thật thứ hai là…sự phát triển
con người toàn diện về mọi chiều kích. Không có một viễn kiến về đời sống vĩnh
cửu thì sự tiến triển của con người trong thế giới này không có chỗ để thở. Đóng
khung trong lịch sử, nó sẽ liều lĩnh chỉ cố làm sao cho có thật nhiều của cải,
phồn vinh; nhân loại do đó không còn can đảm để phục vụ tài sản cao cấp hơn,
phục vụ những sáng kiến to lớn và vô vị lợi được gọi là Đức Bác Ái Phổ Quát.
“Con người không thể phát triển do
chính tài năng của mình, cũng như sự phát triển đó không thể đơn thuần trao về
lại cho họ. Theo trào lưu lịch sử, thường thì những cơ chế/ tổ chức trong xã,
hội quốc gia đã đủ để bào đảm cho quyền phát triển của con người được hoàn
thành” ( Số 11 Caritas in Veritate).
3. “Trong khi người nghèo khó trên
thế giới vẫn tiếp tục gõ cửa nhà người giàu thì thế giới giàu sang vẫn cố tình
không nghe những tiếng gõ cửa ấy bởi vì lương tâm họ không còn phân biệt con
người là gì nữa. Thiên Chúa đã biểu lộ tính người cho con người. Lý trí và niềm
tin cùng làm việc song hành để cho chúng ta biết cái gì là tốt, với điều kiện
chúng ta phải muốn nhận biết nó. Theo luật tự nhiên, thì lý trí sáng tạo chiếu
rọi trước để chỉ cho ta thấy cái hay tuyệt vời của chúng ta, nhưng cái tồi tệ
của con người chúng ta đã làm cho chúng ta không còn nhận ra được tiếng gọi của
Sự Thật Luân Lý” (Số 75 Caritas in Veritate).
- Lạy Chúa, chúng con sẽ đi theo ai
đây? Chúa chính là Lời Hằng Sống.
Fleming Island, Florida
Oct 7, 2015
NTC