CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN A
(Is 45:1, 4-6; 1Tx 1:1-5ab; Mt 22:15-21)
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Trong bài Phúc âm Mathieu hôm nay (Mt 22:15-21), những người
biệt phái một lần nữa lại muốn gài bẫy đức Giesu. Họ nhận thấy Chúa nói bóng gió
ám chỉ họ là những kẻ đã từ chối lới mời không chịu sửa đổi tâm hồn (dụ ngôn
tiệc cưới Mt 22:1-14). Do đó họ bắt đầu âm mưu tung chiến thuật tấn công Chúa.
Họ bắt đầu hỏi những câu ve vãn Chúa để Chúa không đề phòng. Họ cho các đệ tử và
phe theo Herode ca ngợi Chúa là lương thiện, tài giỏi, giảng dạy lời Thiên Chúa
rất chính xác, không cần dựa vào dữ kiện hoặc ý kiến của người khác.
Khi hỏi Chúa “có nên nộp thuế cho Caesar không”
(22:17) là họ biết Chúa thừa sức cắt nghĩa luật Torah, nhưng họ vẫn thách thức
Chúa. Ngược lại, Chúa cũng thừa biết cái thâm ý của họ. Chúng muốn lừa cho Chúa
trả lời hoặc là ngược ý với đa số dân chúng, hoặc sẽ chống đối chính quyền La Mã.
Ý NGHĨA VIỆC NỘP THUẾ
Việc nộp thuế -như nói trong bài Tin Mừng hôm nay- là bổn
phận buộc mọi công dân nam nữ, kể cả nô lệ tuổi từ 12 đến 65 phải thi hành. Tiền
thuế là 1 đồng tiền La Mã, nghĩa là một ngày lương. Loại thuế này được ấn định
năm 6AD khi xứ Judea trở thành một tỉnh lỵ của La Mã. Đây là loại thuế mà dân
chúng rất ghét, đã là mồi lửa nung nóng phong trào quốc gia chống đối cường
quyền La Mã lúc bấy giờ. Từ tâm tư đó nảy ra phong trào Zealot là phong trào
những người nhiệt tâm đã gây nên cuộc chiến Do Thái thảm hại vào những năm
66-70AD. Những người biệt phái thì chống đối loại thuế này trong khi phe theo
Herode công khai ủng hộ La Mã thì yểm trợ.
Nếu chúa Giesu ủng hộ việc triều cống Caesar thì họ sẽ không
coi Chúa là đấng thiên sai. Nếu Người chống thuế, thì sẽ bị coi là tay phản loạn
chống lại La Mã. Đức Giesu đã nhìn thấy cái bẫy họ giăng ra nên Người yêu cầu
họ đưa cho Chúa coi đồng tiền phải đóng thuế. Họ đưa cho Người đồng bac La Mã
(22:19). Trên đồng tiền có in rõ ràng công dụng của nó và sự chấp nhận việc đóng
thuế cho La Mã ở Palestine. Đức Giesu hỏi họ về hình và chữ in trên đồng tiền.
Trên đồng tiền có ghi: “Tiberius Caesar, con của hoàng đế Augustus Thần
Thiêng, Thầy cả thượng tế”. Quả là một phạm thượng về ảnh tượng và thách
thức đối với quyền bính của Thiên Chúa trên Israel. Do đó dân Do Thái rất khinh
miệt đồng tiền này.
HÃY TRẢ CHO CAESAR
Chúa Giesu trả lời họ: “Vậy thì hãy trả cho Caesar cái gì
thuộc về Caesar, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa (22:21).
Câu trả lời của Chúa cho thấy cả những người biệt phái lẫn những người theo
Herode chẳng ai làm chuyện đó cả. Đây là một kết án khá trầm trọng. Những ai
thích dùng đồng tiền đó của Caesar thì phải trả thuế cho Caesar. Câu trả lời của
Chúa Giesu cho thấy Chúa không đứng về phía này hay phía kia.
Chúa Giesu biết quá rõ những kẻ chống đối Chúa là những tên
giả hình nhân đức (22:18), và Người đã khiến chúng phải câm miệng, dù lời Chúa
nói đơn thuần chỉ là sự thật. Chúa Giesu đã nâng cuộc tranh luận lên một mức độ
mới mà sự ngay thẳng và tính chân thật của người không hề bị tổn thương. Những
kẻ làm bộ hỏi về chuyện thuế má để bẻ quẹo qua luật lệ của Chúa thì tốt hơn là
phải để ý đến việc trả nợ Thiên Chúa bằng những biệc lành mà họ còn mắc nợ Thiên
Chúa.
PHỤC VỤ CHÚA VÀ PHỤC VỤ
CAESAR
Trước mắt chúng ta là hai hình ảnh Caesar và Thiên Chúa. Đối
với Caesar, chúa Giesu chỉ hỏi một câu đơn giàn:“Hình ai ở trên đồng tiền?”
Câu trả lời cũng đơn giản: “Caesar.” Do đó, hãy trả cho Caesar cái gì của
ông ta, nghĩa là một phần sản nghiệp của bạn thuộc về ông ta. Nhưng đối với
Thiên Chúa, câu hỏi sẽ thâm trầm hơn: “Hình ảnh và ân phúc của ai đang ở trên
mỗi người chúng ta?” Câu trả lời cũng đơn giản: “Thiên Chúa”. Vậy thì,
hãy trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa, nghĩa là tất cả con người bạn,
trọn vẹn và không bớt xén.
Chúng ta nhận ân phúc từ ai và chúng ta phải tri ân và tuân
phục ai? Phải chăng là Thiên Chúa? Phục vụ Thiên Chúa và Caesar có tương hợp
nhau không? Hay là chúng ta cạnh tranh, dành dật lòng trung thành đến độ làm cho
ân phúc của Chúa bị phân tán mất hết ý nghĩa? Lệnh Chúa nói không chỉ trả cho
Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa, nghĩa là tất cả mọi sự, nhưng đồng thời
cũng phải trả cho Caesar cái gì thuộc về Caesar, nghĩa là sống trọn vẹn những
đòi hỏi của công bằng, công lý, bác ái, ngay thẳng và hòa bình trong mọi tương
quan xã hội, làm việc vì công ích, vì dân, vì những người nghèo khổ bị ức hiếp
bất công.
CYRUS LÀ KHÍ CỤ CỦA THIÊN
CHÚA
Trong bài đọc 1 sách Isaiah 45:1, 4-6, chúng ta thấy nói đến
Cyrus là vua xứ Ba Tư. Isaiah nói với chúng ta là ông ta đã được “xức dầu”, một
bí tích mà khởi đầu chỉ dành cho dân Israel, nhưng nay được áp dụng cho Cyrus,
bởi vì ông là đại diện của Chúa (45:1). Thời kỳ nô lệ của Israel đã chấm dứt
khi Cyrus -vua xứ Ba Tư- cho phép dân Israel trở về quê hương họ để xây dựng lại
đền thờ đã bị phá xập ở Jerusalem. Cyrus đại diện đấng thiên sai mà dân Israel
đang mong đợi. Người là hình ảnh đấng Cứu Chuộc, đến giải thoát dân Chúa khỏi
cảnh nô lệ tội lỗi và đem họ vào vương quốc tự do thực sự. Dù Cyrus được nuôi
dưỡng như là kẻ ngoại, nhưng ngài được Thiên Chúa xức dầu để giái phóng dân
người. Dù ngài đã không biết Thiên Chúa, nhưng ngài đến để biết là ngài được
Thiên Chúa kêu gọi. Thiên Chúa đặt mọi sự trong tay Cyprus để hoàn thành mục
đích của người. Thiên Chúa nâng ngài lên vì mục đích giải phóng dân Do Thái ra
khỏi Babylon.
THÔNG ĐIỆP VUI MỪNG VÀ HY
VỌNG
Dụa vào bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta hãy nhớ lại thông điệp
Vui Mừng và Hy Vọng, một trong những tài liệu rất quan trọng của Giáo Hội
nói về sứ mệnh và sự dấn thân của Giáo Hội trong thế giới ngày nay. Thông điệp
đưa ra cho Giáo Hội một kế hoach mới nhấn mạnh đến, không phải là thoái lui hay
khải hoàn, cũng chẳng phải là đồng hóa, mà là một đối thoại cấp kỳ (nghe và nói)
cùng sự cộng tác có nguyên tắc với những tổ chức và cộng đồng dân tộc khác. Sứ
mệnh của Giáo Hội phải được diễn tả thành từng xã hội và phải coi trọng những
thực tế về tính thế tục và chủ nghĩa đa nguyên. Cũng cần phải nhớ những điểm
chính của tài liệu quan trọng này:
Hiến chế mục vụ của Giáo Hội về Giáo Hội trong thế giới ngày
nay khuyến khích thái độ cởi mở đối với những người thánh thiện như là một thực
tế mà người đời thường đơn giản gọi là thế tục, và vì vậy nó mất đi ý nghĩa tôn
giáo. Vui Mừng và Hy Vọng đã khai triển một chủ thuyết nhân loại Kito giáo rập
khuôn theo giáo huấn xã hội của đức Phaolo VI, Gioan Phaolo II, Biển Đức XVI, và
chắc chắn cuộc sống và sứ vụ của đức Phanxico khi chưa lên Giáo Hoàng. Tài liệu
cho chúng ta thấy con người nhân loại đã biết để ý đến cùng một lúc những ưu tư
về tự do, bình đẳng và kết đoàn của con người. Nó tái xác định sứ mệnh của Giáo
Hội như là dấu chỉ và bảo vệ nhân cách. Vì vậy hiến chế mục vụ cung ứng một nền
tảng thần học cho sứ mệnh xã hội của Giáo Hội.
Sau cùng, thông điệp đề ra một kế hoạch để làm sao Giáo Hội
có thể hòa mình vào thế giới với một thái độ nể vì và tôn kính trước những hoạt
động của Chúa Thánh Thần qua các biến cố, tổ chức và cộng đồng thế giới. Công
tác của thông điệp Vui Mừng và Hy Vọng còn lâu mới được hoàn thành trọn vẹn.
Chúng ta còn cần phải phối hợp sứ mệnh xã hội vào trung tâm đời sống Công giáo.
Cũng cần nhấn mạnh là sứ vụ xã hội là công tác của toàn thể Giáo Hội, không phải
bổn phận của một số ít người hay một nhóm chuyên viên. Đức Phanxico là một gương
sáng tuyệt hảo cần phải noi theo trong vấn đề này.
ĐÁNH GIÁ CUỐI CÙNG CỦA
CÔNG ĐỒNG VATICAN II
Việc đánh giá sau cùng của Công đồng Vatican II, thông điệp
Vui Mừng và Hy Vọng, và tất cả mọi cố gắng muc vụ và thần học của
chúng ta dựa trên điểm căn bản này: Nếu chúng ta thực sự tin rằng đức Giesu Kito
là Chúa lịch sử, và thế giới cùng với thời đại của chúng ta thuộc về Người thì
phải chăng chúng ta không nên xét đoán những cố gắng của chúng ta theo như tâm
trí của đức Kito? Phải chăng chúng ta không nên đánh giá mọi sự chúng ta có và
làm theo cách chúng ta đã mở mắt mình và mọi người thế nào để thấy được vẻ đẹp
cứu chuộc huy hoàng của đức Kito? Phải chăng chúng ta không nên tự hỏi mình xem
những cố gắng của chúng ta đã đào sâu đủ chưa những cam kết và tin tưởng của
chúng ta nơi vương quyền, sự hiện diện và quyền lực của đức Giesu Kito trong
lịch sử nhân loại ?
Nếu hình Caesar trên đồng tiền La Mã được trả lại cho ông ta,
thì trái tim loài người sẽ mang dấu ấn của đấng Tạo Hóa, Thiên Chúa duy nhất của
đời ta. Người đã ghi dấu Người trên chúng ta và sai chúng ta đi thi hành sứ vụ
trên khắp thế giới. Những kế hoạch, chương trình của chúng ta có làm cho chúng
ta trở nên những ngôn sứ, những đầy tớ và đại diện của vương quốc nước trời của
đức Giesu khá hơn không? Chúng ta đừng bao giờ xấu hổ, ngại ngùng phải công khai
làm việc vì vương quốc nước trời của đức Giesu, nói cho mọi người biết về Người.
Chỉ duy nhất một mình Người có thể bảo đảm cho chúng ta niềm vui và hy vọng đích
thực, một “Vui Mừng và Hy Vọng” cho muôn dân “trong thời đại chúng
ta”. Vương quốc Nước Trời của Người sẽ không bao giờ cùng.
Trong tuần này, chúng ta hãy cầu xin để có lòng can đảm, khôn
ngoan hầu trả lời một cách chân thành và đơn giản khi cảm thấy mình bối rối, băn
khoan, lưỡng lự trong những hoàn cảnh mù mờ khó khăn. Chúng ta đã được Thiên
Chúa ghi dấu hình ảnh Người và chúc phúc. Đừng bao giờ quên chúng ta thuộc về ai,
và tại sao chúng ta phải thi hành những điều chúng ta phải làm. Chúng ta được
gọi không phải cho chúng ta, mà Thiên Chúa đã triệu tập chúng ta lại rồi sai đi
khắp thế giới để tuyên xưng danh Người và công cuộc cứu chuộc của Người. Đó là
sứ mệnh buồn, nhưng cũng là lý do để chúng ta vui mừng.
Fleming Island, Florida
Oct 16, 2014
Fxavvy@aol.com
NTC