Ngày 04.05 2017
Đức Thánh Cha Francis đã chính thức ký một văn thư công nhận vị mục tử Phanxicô
Xavier Nguyễn Văn Thuận là Bậc Đáng Kính trong Giáo Hội Công Giáo Lamã. Đây là
một tin rất vui cho Giáo Hội Hoàn Vũ và là một niềm tự hào cho dân tộc Việt Nam,
là tấm gương sáng ngời cho tín hữu giáo dân Việt Nam noi theo.Trong suốt 13 năm
tù (có 9 năm bị biệt giam) Ngài đã sống can đảm và anh hùng trong đức tin Kitô
giáo. Những ai sống gần Ngài đều được ơn biến đổi trở nên tốt lành. Giáo Hội
Việt Nam của dân tộc ta đã có một người con củaGiáo Hội đã trở thành một ngọn
nến Phục Sinh, chiếu sáng trong bóng đêm nhà tù cộng sản đầy tội lỗi và đầy sợ
hãi trong căn nhà tù biệt giam. Từ nơi đó Ngài đã sống dưới ánh sáng Chúa Thánh
Thần trong tâm hồn Ngài. Ngài đã kể lại cho chúng ta về tình yêu, về hy vọng, về
sự tha thứ, về sự giao hòa. Tình yêu, sự tha thứ, ơn giao hòa đã là sức mạnh
Ngài viết lêncuốn „ĐƯỜNG HY VỌNG“ trong nơi tối tăm nhất là nhà tù cộng sản.
Bậc Đáng kính Phanxico Xavier Nguyễn Văn Thuậnsinh ngày 17.04.1928 tại
Phú Cam, Huế trong một gia đình truyền thống rất đạo hạnh, đã sản sinh nhiều vị
tử đạo.. Từ thuở bé, bà thân sinh cậu Thuận dạy con biết nhìn nhận cuộc sống là
một ơn ban của Thiên Chúa và cuộc đời con người thật cao quý vì thế phải biết
tôn trong cuộc sống của người khác dù họ là ai, thế nào… Cậu Thuận được dạy khi
ăn, khi chơi, khi học v.v… đều luôn làm đẹp lòng Chúa, biết chia sẻ giúp đỡ
người khác, nhất là người nghèo khổ, mỗi sáng đi dự Thánh Lễ với mẹ, cậu Thuận
luôn luôn đem theo tiền lẻ để biếu người ăn xin trước nhà thờ. Cậu khôngcầm đồng
xu mà ném vào giỏ của người ăn xin, cậu ngồi xuống bên cạnh thăm hỏi tên người
đó và trao tiền vào chiếc mũ hay chiếc giỏ một cách ân cần trân trọng.
Từ tuổi thơ ấu,cậu Thuận đã nhận ra ơn gọi đời sống thánh hiến của mình.Năm 13
tuổi cậu được cha đưa vào tiểu chủng viện An Ninh ở Cửa Tùng, Quảng trị. Cậu là
một cậu ấm trong gia đình bề thế, nên được bà nội và bố mẹ cưng chiều quá sức,
nhưng khi nghe cậu muốn vào chủng viện thì cả nhà ai cũng mừng vui, vì những bậc
song thân đạo đức của cậu đã rất quảng đại cho con mình được tự do thực hiện ao
ước cuộc đời của con mình. Song bà nội của cậu sợ cậu ở chủng viện thì ăn uống
cực khổ nên không đành lòng vì thế khi cậu Thuận xách vali ra đi xuống đò đến
tiểu chủng viện,bước những bước chân đầu đời xa mái ấm thân yêu, phải tránh mặt
bà nội và mẹ mình vì sợ hai bà khóc quá mà đi không đành.
Năm 1947
cậu Thuận đã là một thanh niên khôi ngô tuấn tú tại Đại Chủng Viện Phú Xuân,
Huế. Vào một kỳ nghỉ hè, cậu Thuận đưa 5 người bạn cùng học về nhà. Khi xuống đò
các cậu đi nhầm đò vì thế khi về đến nhà thì đã nửa khuya, cậu Thuận không dám
gõ cửa mà cậu và các bạn ngủ ngoài hàng ba (hành lang). Buổi sáng sớm bà nội cậu
Thuận đi lễ. Khi mở cửa ra bà thấy có ai nằm ngủ ngoài hè nhà mình bà la lớn và
khi biết đó là cháu đích tôn cưng quý nhất của mình và các bạn, bà đã mắng cậu
tại sao không gõ cửa vào nhà mà ngủ như vậy rồi sinh bịnh hay trúng gió thì còn
tai hại biết bao nhiêu!...
Ngày 11.06.1953
cậu Thuận được thụ phong linh mục. Linh mục Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuậnnhận
„bài sai“ về làm cha phó Tam Tòa, thị xã Đồng Hới, Quảng Bình. Cha Nguyễn Văn
Tâm là cha chánh xứ, một vị mục tử rất nhân đức, đã từ lâu thưa với Đức Giám Mục
sở tại,xin gởi cho giáo xứ một cha phó khỏe mạnh để giúp ngài trong sứ mệnh phục
vụ, vì ngài đã già yếu. Khi LM Thuận đến trình diện cha xứ thì ngài hỡi ôi, Ngài
nói:“Tôi đã xin giám mục gởi cho tôi một cha phó khỏe mạnh mà cha gởi một
LM „liễu yếu đào tơ“ thế này thì tôi phải giúp cha thôi chứ mong gì cha giúp tôi
được. Thôi thì tôi giao cho cha làm 3 chuyện. 1.làm tuyên úy nhà tù, thứ 2: làm
tuyên úy trại cùi, thứ 3: coi các em thiếu nhi.“
Từ những ngày LM Thuận nhận nhiệm vụ trong mục vụ này, LM đã có cơ hội tập lắng
nghe và yêu thương nhiều hơn. LM chia sẻ: „khi đến với những người tù và
những người bất hạnh bị chứng bệnh phong cùi thì mình chỉ đem đến cho họ lòng
thương yêu, kính trọng họ“. Trong sứ mệnh phục vụ này là cơ hội ngài tập
lắng nghe nhiều hơn và ngài ý thức được tâm hồn một con người dù khốn khổ bao
nhiêu, không bao giờ thiếu vắng những điều trân quý tồn tại trong họ.
Thời gian này LM Thuận phải vào bịnh viện ở Huếđể chữa bịnh lao phổi.. Khi chiếu
điện lần đầu, bác sĩ nói ngài phảimổ để cắt đi một lá phổi… Nhưng hội đồng y bác
sĩ sau khi xem xét bịnh thì đề nghị phải chiếu điện một lần nữa xem lá phổi kia
có bị như lá phổi này không thì mới quyết định. Ngài nằm chờ quyết định của các
bác sĩ ở bệnh viện, ngài sẵn sàng lên bàn mổ theo lệnh của họ. Thời gian chữa
bịnh kéo dài 9 tháng. Sau cùng vị bác sĩ chẩn đoán bệnh cho ngài cầm sấp hồ sơ
đến nói với Ngài: „Tôi không biết giải thích thế nào với ông vì bây giờ
xem trong phim thì hai lá phổi của ông hoàn toàn không có dấu vết gì là bệnh,
ông có thể ra về“. LM Thuận thật bất ngờ, thắc mắc và ngạc nhiên ra về.
Năm 1954
LM Thuận làm phó xứ tại giáo xứ Phanxico Xavier. LM chánh xứ là cố Triết. Sau đó
LM Thuận được làm chánh xứ giáo xứ này, kiêm thêm tuyên úy lao xá Thừa Thiên,
tuyên úy trường Pellerin, tuyên úy bệnh viện Huế.
Năm 1956
LM Thuận qua Roma học giáo luật tại đai học Urbaniana.
Năm 1959
LM Thuận đậu bằng tiến sĩ giáo luật với kết quả „Maxima cum laude“luận
án „Tuyên úy quân đội trên thế giới“. Trở về VN làm giáo sư dạy tại
tiểu chủng viện Phú Xuân, Huế.
Năm 1962LM
Thuận làm giám đốc tiểu chủng viện Hoan Thiện, mới được thành lập thay thế tiểu
chủng viện Phú Xuân.Thời gian này ngài thường xin mẹ mình thỉnh thoảng gởi cho
15 kg kẹo. Bà cố không hiểu LM Thuân xin kẹo để làm gì, sau đó mới hiểu. LM để
cho các cậu học trò trong chủng viện, mỗi lần các cậu vào phòng ngài dọn dẹp thì
tự nhiên lấy mà ăn, vì ngài biết các em ở quê, nhà nghèo rất ít khi được ăn kẹo.
Năm 1964
LM Thuận làm tổng đại diện tổng giáo phận Huế.
Ngày 04.5.1967
Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục Nguyễn Văn Thuận làm giám mục Nha Trang.
Ngày 24.06.1967 lễ phongchức giám mục Nha Trang tại tiểu chủng viện Hoan
Thiện. Chiều ngày 10.07.1967 Ngài chính thức nhận chức giám mục Nha Trang
do Đức Khâm Sứ Palmas chủ lễ. Khẩu hiệu của Ngài là „Gaudium et Spes = Vui
mừng và hy vọng“.
Thời gian này Ngài thành lập:
1.
Hội đồng giáo dân
gồm 1.200 vị được bầu từ cấp giáo xứ, giáo hạt, giáo phận có nhiệm kỳ 3 năm.
Thành viên đêì được huấn luyện và phải tĩnh tâm hằng năm.
2.
Phát triển các đoàn
thể công giáo tiến hành
3.
Thành lập trung tâm
văn hóa Chàm tại Ninh Thuận.
4.
Thành lặp ban Công
Lý và Hòa Bình.(1.1.1969)
5.
Thành lập viện Lâm
Bích (1969
6.
Thành lập phong trào Cursillo và phong trào Focolare.
7.
Thành lập phong trào Học Hội Kitô gióa
8.
Công bố “Quy Chế Giáo Dân”.
9.
Phát hành tuần bào “Dấn Thân”
Ngày
24.04 1975 Ngài
làm giám mục phó tổng giáo phận Saigon với quyền kế vị (DGH Phaolô VI bổ
nhiệm).Ngày 08.5.1975 ngài về Saigon nhận nhiệm sở.
Ngày
07.06.1975 Ủy ban
quân quản thành phố Saigon không cho Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận hoạt
động tại đây.
Ngày
01.7.1975 họ bắt
buộc ngài phải về nơi cư trú trước 30.04.1975 là thành phố Nha Trang. (Ông
Trương Tấn Sang, lúc đó là chủ tịch UBNDTP Saigon, gửi thư cho Đức Tổng Giám Mục
Nguyễn Văn Bình có nhắc lại việc bổ nhiệm TGM Nguyễn Văn Thuận như sau: “Như
cụ đã biết, năm 1975, chính phủ ta đã không chấp nhận ông Nguyễn Văn Thuận về
giáo phận thành phố và dứt khoát sẽ không bao giờ chấp nhận, vì ông Thuận đã
từng gắn bó với một gia đình có nhiều nợ máu với nhân dân và bản thân ông Thuận
cũng có một quá trình lâu dài và tinh vi chống phá sự nghiệp giành độc lập và
bảo vệ độc lập dân tộc” (đây chính là nguyên nhân TGM Nguyễn Văn Thuận
bị giam 13 năm).
Ngày
15.08.1975– Lễ Đức Mẹ Lên Trời, Ngài bị việt cộng đến bắt Ngài về Nha Trang
giam tại Cây Vông, xã Diên Sơn, huyện Diên Khánh, Khánh Hòa.. “Ngày
15.8.1975, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tôi được mời đến Phủ Tổng Thống. “Dinh
Độc Lập”, vào lúc 14.00. Tại đó tôi bị bắt và đem đi trên một chiếc xe hơi có
hai công an kèm hai bên. Và đó là khởi đầu cuộc phiêu lưu của tôi.Trong lúc ấy,
tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ bị gọi tới Nhà Hát để tránh mọi phản ứng của
dân chúng đối với vụ bắt tôi.
Trong cuộc hành trình, tôi bắt đầu ý thức rằng minh đang mất tất cả.Tôi ra đi
với chiếc áo chùng thâm, trong túi chỉ có mỗi cỗ tràng hạt.Tôi chỉ còn biết phó
thác cho Chúa Quan Phòng. Nhưng giữa bao nhiêu những lo âu ấy, tôi vẫn thấy một
niềm vui lớn lao: “Hôm nay là Lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời”.Từ lúc đó, người ta cấm
gọi tôi là Đức Cha, là cha… “Tôi là ông Nguyễn Văn Thuận.Tôi không được mang
tước hiệu gì về chức vụ của tôi.Không báo trước, Chúa yêu cầu tôi trở về với
điều cốt yếu.Trên đường dài 450 cây số, không một bóng người. Tôi thật sự bị bỏ
rơi” (trích
“Chứng Nhân Hy Vọng”)
.
Vài ngày
sau, họ đưa ngài về giam tại Phú Khánh, Nha Trang.Mỗi ngày, nơi bị
giam giữ, nghe tiếng chuông nhà thờ ngài nhớ lại những tiếng chuông thời thơ
ấu từ gia đình đầm ấm đến những quãng đời đi học và khi phục vụ Thiên Chúa, ngài
thấy mình phải gạt bỏ qua những tiếng chuông của quá khứ, ngài sống với tiếng
chuông trong giây phút hiện tại, nghe tiếng chuông và tiếng sóng biển, ngài
thương cảm biết bao đàn chiên của mình quanh đây mà họ không biết mình đang ở
gần họ… nhắc nhở ngài bổn phận chủ chiên, bổn phận của một công dân yêu nước…
tia sáng hy vọng đến nhắc nhở ngài sống giây phút hiện tại. Với thân phận tù đày
trong lúc đất nước đang rối reng, ngài trải lòng yêu quê hương qua bài thơ:
“Con có
một tổ quốc”
Tiếng
chuông ngân trầm
Việt
Nam nguyện cầu
Tiếng
chuông não nùng
Việt
Nam buồn thản
Tiếng
chuông vang lừng
Việt
Nam khải hoàn
Việt
Nam hy vọng.
Con có
một tổ quốc Việt Nam
Quê
hương yêu quý ngàn đời
…
Một
nước Việt Nam
Một dân
tộc Việt Nam
Một tâm
hồn Việt NamMột văn hóa Việt Nam
Một
truyền thống Việt Nam
Là
người Công Giáo Việt Nam
Con
phải yêu tổ quốc gấp bội./-
Ngày
16.08.1975, sau
một ngày bị bắt, Ngài viết cuốn “Năm chiếc bánh và hai con cá”.Đồng
thời ngài viết cuốn “Đường Hy Vọng”, hoàn tất vào ngày
08.12.1975 với 1001 câu suy niệm ngắn gọn để giúp giáo dân sống đạo
trong hoàn cảnh mới của đất nước. Cuốn sách này được Ngài coi là di chúc tinh
thần của ngài gởi tới giáo dân Công Giáo Việt Nam trong và ngoài nước.” với lời
nhắn: Nhắn con nghìn lẻ một lời. Ngày đêm suy niệm trọn đời hiến dâng”.
Ngài kể: “Một
buổi sáng tháng 10.1075, tôi ra dấu cho cậu bé tên Quang, 7 tuổi, đi dự lễ 5 giờ
về, khi trời chưa sáng: “Con nói với mẹ mua cho cha mấy bloc lịch cũ”. Chiều
tối, khi mặt trời lặn, bé Quang đem cho tôi các bloc lịch cũ. Từ khi ấy trong
tháng 10 và 11.1975 hằng đêm tôi viết cho dân tôi thông điệp từ cảnh tù đày. Mỗi
sáng, bé Quang đưa các tờ lịch ấy về cho các anh chị chép lại và phổ biến.”
*
Ngày
29.11.1976 Nhà
nước đưa ngài vào giam tại trại Tam Hà, Thủ Đức.
Ngày
01.12.1976, Ngài cùng 1.500 tù nhân là sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa và
một số chính trị gia xuống tàu Trường Xuân đưa ra miền Bắc.
Bị giam
trong tù, có năm ngườicai ngục trẻ canh gác ngài. Chỉ huy của họ thấy những anh
này có cảm tình với người tù này nên cấm không cho họ được nói chuyện với ngài.
Ban đầu mỗi người được thay đổi 15 ngày. Rồi sau họ không dám thay đổi nữa vì họ
sợ người nào canh gác ngài cũng đều bị ảnh hưởng (họ dùng chữ bị lây nhiễm) của
ngài vì lòng nhân từ yêu thương họ và dạy học cho họ nhiều điều hay, hữu ích
v.v…Ban đầu công an canh gác ngài, họ không nói một lời chỉ trả lời có hay
không. Thật là buồn, tôi muốn tử tế và nhã nhặn với họ mà không được.
Đêm nọ, một tư tưởng đến với Ngài :“Phanxicô, con giàu lắm, con có tình
yêu của Chúa trong trái tim, hãy yêu thương họ như Chúa yêu thương con.”
Hôm sau, ngài bắt đầu yêu Chúa Giêsu nơi họ hơn nữa bằng cách trao đổi cười nói
vài câu thân tình, kể cho họ nghe qua cánh cửa về cuộc sống các quốc gia mà Ngài
đã đến thăm, về gia đình Ngài thời thơ ấu. Ngài dạy họ học ngoại ngữ, Anh và
Pháp cả tiếng Nga nữa và dạy hát tiếng Latin vì trong tù có vài anh công an học
tiếng Latin để đọc các tài liệu của Hội Thánh.
Một hôm có
một anh hỏi ngài. “Ông có thể dạy tôi một bài thánh ca tiếng Latin không?.
-
Được, nhiều bài lắm mà bài nào cũng hay.
-
Vậy ông hát đi, tôi nghe rồi tôi sẽ chọn…
Thế
là tôi hát: “Kính chào Mẹ là sao Bắc Đẩu”. (Ave Maris Stella), “Chào Mẹ (Salve
Mater)” “Lạy Thần Khí Sáng Tạo, xin hãy đến” (Veni Creator Spiritus) và anh ta
chọn bài sau cùng.
Ngài
không ngờ một anh công an lại hát bài thánh thi đó và mỗi sáng lúc 7.00, anh leo
xuống thang gỗ để tập thể dục và đi tắm trong vườn, anh ta hát đi hát lại bài
thánh ca nhiều lần và làm các cử điệu khác nhau khi múc nước tắm: “Lạy Thần Khí
Sáng Tạo xin hãy đến, viếng thăm tâm trí các tín hữu Chúa….” Và anh ta kết thúc
lời cuối bài thánh thi: “cho đến muôn đời Amen” là khi anh bước vào phòng làm
việc với quần áo chỉnh tề.
Ban
đầu tôi lâý làm lạ, nhưng dần dần tôi nhận ra rằng chính Chúa Thánh Thần đã dùng
anh công an đó để giúp một giám mục bị tù cầu nguyện, khi vị đó quá yếu nhược và
mất tinh thần đến độ không còn cầu nguyện được nữa. Chỉ có công an mới có quyền
hát to “Lạy Thần Khí Sáng Tạo…”. Tôi không bao giờ được hát lên như vậy bởi vì
làm thế là báo cho mọi người biết có một linh mục đang bị giam ở trong ngục
(trích “Chứng Nhân Hy Vọng”)
Một lần
khác, trong trại tù Vĩnh Quang, trên núi Vĩnh Phú, trời mưa, ngài phải bổ củi,
ngài hỏi người canh tù: “ Tôi có thể xin anh một điều không? Đó là tôi
muốn đẽo một hình thánh giá bằng gỗ” họ đã tránh đi để cho Ngài đẽo
được cây thánh giá, . Ngài dấu nó trong bánh xà phòng, mặc dù trong tù cấm tất
cả các biểu tượng tôn giáo. Trong một trại tù khác, ngài xin anh canh tù một sợi
dây điện làm anh ta hết hồn vì thường tù nhân xin dây điện chỉ để tự tử, nhưng
ngài trấn an anh ta và xin anh ta đem cho hai cây kìm nhỏ, người này nói: “tôi
sẽ đem lại cho ông nhưng ông phải hoàn thành trong ba tiếng đồng hồ”.
Ngài đã cắt sợi dây điện thành từng đoạn ngắn bằng que diêm.Và làm thành sợi dây
để đeo.Thánh giá này ngài đã đem ra hải ngoại mạ bạc và luôn đeo theo bên
minh,ngài nói: “Chỉ có tình yêu Kitô mới có thể thay đổi con tim, chứ
không phải khí giới, các lời đe dọa và phương tiện truyền thông”.
Trong tù,
ngài vẫn cử hành Thánh Lễ cho chính mình và cho những tù nhân khác.Những người
đến thăm ngài tại trại cải tạo đã lén chuyển rượu lễ và bánh lễ cho ngài, ngụy
trang bằng chai thuốc trị đau bao tử.“Mỗi ngày tôidùng ba giọt rượu và một
giọt nước đổ vào lòng bàn tay để cử hành Thánh Lễ. Những người tù được chia làm
50 người.Chúng tôi ngủ chung trên một cái giường thật dài, mỗi người được 50
centimet. Mỗi đêm, chúng tôi thu xếp có 5 người công giáo nằm cạnh tôi. Đến 9.30
là giờ ngủ, trong bóng tối, tôi cúi mình trên giường để dâng Thánh Lễ thuộc lòng
và phân phát Thánh Thể cho nhau bằng cách luồn tay dưới các tấm màn chống muỗi.
Chúng tôi dùng bao thuốc lá để cất giữ Mình Thánh và đem cho người khác, riêng
tôi luôn giữ Mình Thánh Chúa trong túi”.(trích “Chứng nhân Hy Vọng”)
Ngài tâm
sự: “Trong nhà tù, mỗi ngày với 3 giọt rượu và một giọt nước trong lòng
bàn tay, tôi cử hành Thánh Lễ. Đây là bàn thờ của tôi, là nhà thờ chính tòa của
tôi. Thánh Lễ là phương dược chữa xác cứu hồn, là thang thuốc trường sinh bất
tử… “
Trong nhà tù thậtẩm ướt và nóng, thật gian nan khốn khó, Ngài nằm dưới đất để
ngủ cho mát. Chỉ có một cái lỗ để thông hơi, để cho nước chảy ra. Khi trời mưa
thì rết, giun v.v… bò vào mà Ngài yếu đến nỗi không thể đưa tay ra mà đuổi
chúng. Thì thôi cứ nằm yên và đọc kinh Lạy Cha mà có lúc yếu đến nỗi đọc không
được.Sau một tuần Ngài ngó lên chỗ nằm (tạm gọi là giường) thì nấm mọc đầy.
Một
hôm, tại trại tù Giang Xá, có một người đến thăm Ngài mà không hề mở miệng nói
gì cả. Ngài nói: “Xin ông cầu nguyện cho tôi”. Người đó đáp: “cha nhớ là một
kinh cha đọc trong nhà tù bằng một ngàn kinh ở ngoài”.
Một
người tên là Trần Hải, ông ta là một cán bộ cao cấp ở La Vang, người trước
kiađược nhà nước cho đến dò xét cha, ở chung buồng với cha. Ông hứa khi về nhà,
Chúa Nhật tôi sẽ cầu nguyện cho cha. Thời gian sau, cha nhận được 1 lá thơ, ông
ta kể cứ 5.00 chiều nghe chuông nhà thờ La Vang là ông ta đạp xe đi 3 km đường
đến La Vang cầu nguyện cho ông Thuận. Ông nói: “Tôi cầu nguyện như thế này. Thưa
Đức Mẹ, tôi không có đạo,tôi không biết đọc kinh, nhưng tôi hứa cầu nguyện cho
ông Thuậnnên tôi đến đây xin Bà thấy ông Thuận cần gì thì Bà ban cho ông ấy”.
Ở tù
13 năm tôi mất đi 22 kg.(Hồi sống ở ngoài thì chữa bịnh 9 tháng, thổ huyết hơn
một tháng) Giờ đây trong người không còn Cholesteron, không còn di chứng bịnh
lao phổi, không được giảng, không được đi xe đạp, sống đơn sơ, không cảm thấy
thiếu gì cả. Đời linh mục của Chúa rất hạnh phúc, vui và đáng sống. Chưa biết
thù ghét ai kể cả những người làm mình đau khổ
(ghi lại Lời Cha Thuận kể ).
Năm
1988 Ngài được trả tự do,
sau 13 năm tù (9 năm biệt giam) và được chỉ định nơi cư trú là Tòa Tổng Giám Mục
Hà Nội.
Ngày
21.11.1988 một cán bộ đến gặp Ngài:
-Ông
Thuận, ông ăn cơm chưa?
-Chưa, tôi đang nấu.
-Ăn
cơm xong, ăn mặc sạch sẽ để đi gặp lãnh đạo.
-Lãnh đạo nào ạ?
-Tôi
không biết. Tôi chỉ làm theo lệnh cấp trên.
Cơm trưa
xong, Ngài được đưa đến nhà khách chính phủ. Sau khi bắt tay, ông Mai Chí Thọ,
Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ nói:
-
Ông Thuận, ông có nguyện vọng gì không?
-
Tôi muốn được tự do.
-
Bao giờ?
-Ngay hôm nay.
Thấy ông
bộ trưởng bối rối, ngài nói tiếp:“Tôi ở tù trải qua 3 đời Đức Giáo Hoàng
là Phaolô Đệ lục, Gioan Phaolo đệ nhất và Gioan Phaolo đệ nhị. Và thời gian ở tù
của tôi cũng đã trải qua 4 đời Tổng Bí Thư Liên Xô: Breznev, Andropov, Chernenko
và Gobachev.”
-Đúng!
đúng!HoangàngHH Nói vậy rồi bộ trưởng quay
qua nói với người cán bộ: “Hãy làm những gì cần thiết để thỏa mãn cho ông
Thuận.”
Lúc ấy
lòng tôi nhảy mừng: Mẹ Maria đã giải thoát tôi. Lạy Mẹ con cám ơn Mẹ. Mẹ
yêu kính! Con mừng Lễ Mẹ!
Năm
1989 Ngài được qua Úc thăm bố mẹ.
Khi gia
đìnhĐức cha Thuận được tin ngài sẽ rời Việt Nam qua Úc thăm gia đình thì các con
trong nhà không dám cho hai cụ cố biết tin, vì không thể biết được nhà nước Việt
Cộng có cho ngài ra đi thật không. Gia đình chỉ nói là có một vị của Tòa Thánh
đến thăm hai cụ.Trong gia đình chuẩn bị đón tiếp. Khi Đức cha Thuận bước vào nhà
thì cụ bà đã nhận ngay ra con trai minh. Nhưng cụ ông thì chưa nhận ra nên chào
“Bonjour Monsengeur”, nhưng ngay sau đó thì nhận ra Đức Cha Thuận.
Trong nhiều năm trời, gia đình ngài không nhận được bất cứ tin tức gì về ngài
cả.Gia đình nghĩ rằng ngài đã bị giết chết.Nhưng hội Hồng Thập Tự Quốc Tế, qua
nhiều năm truy tìm, họ báo cho gia đình biết ngài vẫn còn sống và hiện đang bị
giam trong trại cải tạo. Thời gian sau, những người cọng sản bảo ngài viết thư
cho gia đình mua thuốc tây gởi vào vì ngài bị bịnh. Mỗi tháng, gia đình đều gởi
toa thuốc đến một dược phòng ở Pháp đặt mua hàng trăm loại thuôc kháng sinh gởi
vào trại cải tạo. Gia đình biết rõ, những loại thuốc này không dành cho ngài,
nhưng không có chọn lựa nào khác.Họ còn nhắn gia đình gởi sữa vào để nuôi người
bệnh.Gia đình đã gởi sữa hộp vào trại. Khi ngài được thả, ngài cho biết, cán bộ
chỉ đưa cho ngài hộp không và nói là chuột ăn hết rồi.
(Lời bà Thủy Tiên, em gái DC Thuận)
Năm
1991 Ngài bị trục xuất khỏi Việt Nam qua Roma.Thời
gian này ngài được mời đi giảng và thuyết trình tại nhiều quốc gia (giảng mùa
chay tại nhà thờ Notre Dame de Paris.Các trường đại Học trên thế giới.Tại Mexico
giảng cho hơn 5.000 người tuổi thanh niên).Ngài đến thăm và giảng dạy tại các
cộng đoàn dân Chúa Việt Nam tại Âu Châu, Úc Châu và Mỹ Châu.Đến đâu ngài cũng
được khán thính giả hâm mộ, kính trọng và yêu mến.
Năm
1994 ngài được DGH
bổ nhiệm làm Chủ Tịch Danh Dự Hội Đồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hòa Bình tại
Roma. (Lần đầu tiên một giáo sĩ Việt Nam được bổ nhiệm vào chức vụ quan trọng
này) ngài tuyên bố: “ Tôi mơ ước một Giáo Hội là chứng nhân của hy vọng và
tình thương, bằng những hành động cụ thể, như khi chúng ta thấy Đức Giáo Hoàng
tiếp nhận tất cả mọi người: Chính Thống, Anh Giáo, Luther, Calvin… trong ơn
thánh Chúa Kitô, tình thương của Chúa Cha và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần
sống trong kinh nguyện và trong sự khiêm nhường.”
Năm
1996 Đại Học Dòng
Tên ở New Orleans, Louisiana, USA trao tặng bằng Tiến Sĩ Danh Dự.
Năm
1998 Ngài được
chính thứclàm chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình.
Ngày
09.06.1999 Chính
Phủ Pháp trao tặng Ngài Huy Chương Commandeur de L Ordre National du Mérite.
Ngày
12.1.2000 Hội
“Cùng Nhau Xây Dựng Hòa Bình” đã trao tặng ngài Huy Chương Hòa Bình tại Tòa Thị
Chính Roma.
Năm
2000 Ngài giảng
tĩnh tâm mùa chay cho Giáo Triều Roma.Những bài giảng trong nhà nguyệnMẹ Đấng
Cứu Thế, từ chiều 12.3 đến 18.3.2000Ngày 18.3.2000, được in thành sách “Chứng
Nhân Hy Vọng” . DTC thay mặt các giám mục cám ơn DC Thuận và tặng ngài một
chén thánh rất đẹp.”DC Thuận nói, tất cả là hồng ân của Chúa. Trong tù từ
ngày bị quản thúc ở Cây Vông, Phú Khánh tôi dùng chén thánh là bàn tay, dâng lễ
với 3 giọt rượu và một giọt nước, tôi không bao giờ nghĩ ngày hôm nay, 24 năm
sau, thật cảm động, tôi nhận được một chén thánh mạ vàng từ tay Đức Giáo Hoàng”.
Ngày
21.01.2001 Ngài
được tuyển chọn vào Hồng Y Đoàn.Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã trao mũ Hồng Y
cho Ngài và đặt ngài làm Hồng Y Phó Tế. Khẩu hiệu Hồng Y của Ngài là ”Gaudium
et spes”“ Vui Mừng và Hy Vọng”. Hiệu Tòa nhà thờ Santa
Maria della Scala. Nhà thờ này do các LM Dòng Đức Bà Camelo coi sóc, tại vùng
Trastevre, Roma.
Cùng năm
này ngài bị bịnh, có một bướu lạ ở trong bụng, phải qua Boston Hoa Kỳ giải
phẩu.Tháng 5.2002 bệnh tái phát.
Ngày28.4.2002.Ngài
về Úc Châu thăm gia đình và mừng thọ Bà Cụ Cố 100 tuối.
Ngày
08.5.2002 ngài trở về Milano để mổ lần thứ hai, nhưng vì sức khỏe và tuổi
già nên cuộc giải phẩu đang dang dở mới có một phần ba thì phải ngưng lại.
Ngày
16.09.2002.Đến
6.00 chiều Ngài qua đời tại Roma. Thánh Lễan táng được cử hành trọng thể chiều
20.09.2002 do chính DGH Gioan Phaolô II cử hành với khoảng 4.000 người
tham dự. “Trong lúc chào vĩnh biệt người sứ giả anh hùng của Tin Mừng Chúa
Kitô, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta, nơi con người của DHY, một
tấm gương sáng ngời về đời sống tín hữu Kitô, phù hợp với đức tin, đến độ tử đạo
(…..) DHY đã hiểu nền tảng của đời sống Kitô hữu là “chọn một mình Chúa thôi”như
các vị tử đạo Việt Nam đã làm trong những thế kỷ trước. Chúng ta được mời gọi
rao giảng cho tất cả mọi người “Tin Mừng Hy Vọng” và DHY giải thích rằng: “Chúng
ta chỉ có thể chu toàn ơn gọi ấy với sự hy sinh quyết liệt, dù phải chịu những
thử thách cam go nhất (……) Đây không phải là sự anh hùng, nhưng là sự trung
thành chín chắn, hướng cái nhìn về Chúa Giêsu là mẫu gương của mọi chứng nhân và
mọi vị tử đạo”
Vào ngày
08.6.2012 sau 10 năm an nghỉ tại nghĩa trang Verano, Roma, di hài của
ngài được cải táng về nhà thờ hiệu tòa của ngài, nhà thờ Đức Mẹ Scala, Roma.
Elisabeth
Nguyễn