(Chúa Nhật V TN B)
Ông Gióp than thở: “Cuộc
sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?…Gia tài của tôi
là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề.” (G 7,1-3).
Vấn nạn đau khổ là vấn nạn muôn thuở của kiếp người. Không riêng gì các trang
của sách Gióp, kho tàng văn chương của nhân loại từ cổ chí kim vẫn đầy dẫy các
hình thái khổ đau của con người được trình bày, mô tả và mạn bàn. Nói đến
chuyện đau khổ, bàn đến chuyện đau khổ qua các trang sách, các thước phim hay
dòng nhạc trử tình ai oán thì như rất dễ thu hút lòng người. Có nhiều nguyên cớ
tuy nhiên cần chân nhận lý do chung này: người ta thấy có chút đồng cảm nào đó,
vì chính họ cũng khổ đau. Đồng bệnh thì tương liên, chuyện đời là vậy.
Bài Tin Mừng Hội thánh
cho trích đọc trong Chúa Nhật V TN B này tường thuật một ngày làm việc của Chúa
Giêsu là chữa lành nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật về tinh thần lẫn thể
xác. Sau khi chữa cho bà mẹ vợ ông Phêrô khỏi cơn sốt nặng thì “chiều đến, khi
mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho
Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ
bệnh tật, và trừ nhiều quỷ” (Mc 1,32-34). Khó có thể chối cãi sự thật này đó là
Chúa Giêsu tìm mọi cách xoa dịu khổ đau của con người. Thế nhưng tại sao khi
người ta kéo nhau đến cùng Người thì Người lại đi nơi khác? Phải chăng Chúa
Giêsu muốn “nhổ cỏ tận gốc”, tức là tìm cách diệt trừ căn nguyên của sự đau
khổ?
Vì sao có đau khổ? Một
câu hỏi rất khó tìm được câu trả lời cách rõ ràng và có tính thuyết phục. Anh
em Phật tử thì chủ trương rằng đau khổ có căn nguyên nơi cái “dục” của con
người. Vì ước muốn mà không được toại nguyện nên phải chịu đau khổ. Chính vì thế
con đường thoát khỏi khổ đau được đề ra đó là “diệt dục”. Nếu nhìn cuộc đời con
người với vòng đời “sinh - lão - bệnh - tử” là bể khổ thì làm sao giải thích
được việc một người được sinh ra là khổ, cho dù “thoặt sinh ra thì đà khóc
choé”? Người ta có thể muốn trẻ mãi không già, muốn mạnh khoẻ, không bệnh tật,
muốn trường sinh bất tử, nhưng không một ai trên trần gian có thể tự mình
“muốn” được hay không đựơc hoài thai trong dạ mẹ cũng như tự mình muốn được hay
không được chào đời làm người.
Lão tử thì quan niệm đau
khổ có ra là vì con người sống không hợp với Đạo, vói lẽ trời, với sự vận hành
của giới tự nhiên. Khi con người không làm chủ ước vọng của mình, để cho tham
muốn của mình đi thái quá cũng gây ra khổ đau. Chính vì thế để diệt khổ đau
không gì hơn là tiết chế tham muốn của mình một cách nào đó theo kiểu cách của
thi nhân Nguyễn Công Trứ:
Tri túc, tiện túc, đãi
túc hà thời túc.
Tri nhàn, tiện nhàn, đãi
nhàn hà thời nhàn.
Và sống thuận theo lẽ
trời tự nhiên như Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Thu
ăn măng trúc, đông ăn giá.
Xưân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Các triết gia, các nhà
đạo đức học phân biệt đau đớn với đau khổ. Các loài vật vì không có lý trí và ý
chí tự do nên chỉ có đau đớn mà không có đau khổ. Đau khổ là một phạm trù thuộc
lý trí. Biết được chuyện chẳng may, chẳng lành mà không tránh được thì mới có
khổ đau. Người ta thường dí dỏm rằng người điên không hề có khổ đau. Một giải
thích ngắn gọn đó là vì họ không biết. Tuy nhiên, ngoại trừ một vài nguyên nhân
khách quan như thiên tai, dịch bệnh…thì người ta đều chân nhận rằng chính tội
lỗi con người là nguyên nhân lớn gây ra đau khổ cho đồng loại. Và Kitô giáo ủng
hộ lập trường này, mặc dù vẫn quan niệm đau khổ là một huyền nhiệm.
Để có cái nhìn tương đối
khách quan về đau khổ, thiết tưởng chúng ta cần xem xét bản chất đau khổ là gì?
Đau khổ là tâm trạng khó chịu khi gặp phải sự dữ hay khi thiếu một điều thiện
hảo nào đó. Rất khó và dường như không thể xem xét đau khổ như là hiện tượng
độc lập, tự thân nó. Đã nói đến đau khổ là nói đến một ai đó đau khổ. Như thế
sự đau khổ luôn gắn liền với nhận thức và ước muốn của con người. Con người cảm
thấy đau khổ khi các hiện tượng khách quan lẫn chủ quan như cưỡng lại ý muốn
của mình.
Đến thế gian, Chúa Kitô
không giải thích cặn kẻ về khổ đau cũng như các nguyên nhân của nó. Tuy nhiên
qua các hành vi, lời nói và chính cuộc sống của Người, Người dẫn chúng ta đi
trên con đường kinh qua đau khổ để sống yêu thương. Dù rằng vẫn cố gắng đến
quên ăn, quên ngủ để làm dịu cơn khổ đau của nhân loại, nhưng Người đã biết rõ
cuộc đời con người khó có thể thoát được mọi nổi khổ đau, cả về thể lý lẫn tinh
thần. Người đã tự nguyện chọn con đường đối diện với với đau khổ bằng một tình
yêu vị tha bao la. Không phải diệt dục là hết khổ đau, vì chính hành vi diệt
dục cũng là một cách muốn, cho dù các bậc minh triết trong Phật giáo diệt dục
bằng sự “tri kiến”. Không phải cứ thuận theo lẽ tự nhiên là khổ đau biến mất vì
sự vận hành của giới tự nhiên lắm khi quá nghiệt ngã. Biết dừng cái ham muốn
của mình trong sự trung dung, vừa đủ thì hết khổ chăng? Cũng thật cam go vì
biết thế nào là đủ, là vừa.
Trong niềm tin, với lời
mạc khải, đặc biệt là qua con đường Chúa Kitô đã đi, chúng ta có thể quả quyết
rằng chính khi hướng cái dục là lòng muốn đến tha nhân với các mục tiêu tốt đẹp
kiểu “hãy thực hiện cho tha nhân những gì ta muốn tha nhân làm cho mình” thì sẽ
có cơ may vượt qua đau khổ (x.Lc 6,31). Thánh Âugustinô đã từng chỉ dạy: Hãy
yêu đi thì bạn sẽ vơi hết khổ đau. Nếu có đau khổ thì cái đau khổ ấy cũng đã
được yêu rồi”.
Cần phải diệt trừ tội
lỗi là một nguyên nhân lớn gây ra đau khổ, đồng thời cần phải tránh các khổ đau
cho bản thân cũng như cho tha nhân và tích cực xoa dịu khổ đau cho đồng loại
hết khả năng có thể, vì đó là điều chính đáng và phải đạo. Tuy nhiên, nếu gặp
phải sự đau khổ không như ý hay chẳng đặng đừng thì hãy can đảm đón nhận nó để
sống yêu thương. Tình yêu vị tha mà kinh qua đau khổ là tình yêu thật đáng giá
và đượm đầy tính vô cầu. Như thế không phải là tìm cách diệt dục hay hạn chế sự
dục mà là hướng cái dục của chúng ta theo thánh ý Cha trên trời, Đấng tốt lành
và nhân hậu. Ngày nào có sự khốn khó của ngày đó (Mt 6,34). Là Kitô hữu, chúng
ta tránh, nhưng không trốn sự đau khổ.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa - Ban Mê Thuột