(Chúa Nhật IV TNC)
Đã là Kitô hữu thì thảy đều được tham dự vào ba chức vụ của Chúa
Kitô là ngôn sứ, tư tế và vương giả. Lướt cái nhìn qua ba sứ vụ ấy thì sứ vụ tư
tế xem ra được kính nể hơn cả. Sứ vụ vương giả tuy có nhiều vất vả nhưng lại
được trọng kính một cách nào đó. Còn sứ vụ ngôn sứ thì có lẽ hẩm hiu nhất.
Làm ngôn sứ là nhân danh Chúa và thay mặt Chúa mà trình bày ý,
lời của Chúa cho đồng loại. Lời Chúa là lời tình yêu, nhưng cũng là lời chân
lý. Chính vì thế mà Lời Chúa được ví như thanh gươm hai lưỡi phân rẽ tâm hồn
con người. Ngay lời của con người, nếu là lời của sự thật, thì cũng đã dễ mất
lòng. Phận người chúng ta xem ra công ít mà tội nhiều. Mặt tốt cũng có, việc
lành cũng có, nhưng chẳng đáng là bao so với mặt tồn tại và những lỗi lầm. Và
thế là người ta thật khó chấp nhận khi sự thật về con người mình bị phơi bày.
Nhiều ngôn sứ khi được Chúa
kêu mời thi hành sứ vụ, thì thường run rẩy hoặc tìm cách thoái thác. Quả thật
chuyện “chưa được mạ thì má đã sưng” là chuyện xưa nay không hiếm. Nói lời sự
thật, nhất là cho những người đang nắm quyền cao, chức trọng, thì biết bao nguy
hiểm rình chờ ập xuống không biết khi nào. Thế mà Chúa vẫn cứ bảo với ngôn sứ:
“Người hãy thắt lưng, hãy chỗi dậy! Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ
truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ, nếu không, trước mặt
chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn” (Gr 1,17).
Đã là ngôn sứ thì phải nói lời sự thật. Nếu không nói thì chính
sứ ngôn sẽ nhận lấy tại họa từ chính Thiên Chúa: “chính Ta sẽ làm cho ngươi run
sợ”. Nếu người ngôn sứ mà không nói cho kẻ gian ác biết điều gian ác nó đã
phạm, khiến nó phải chết trong sự gian ác của nó, thì chính Thiên Chúa sẽ đòi
nợ máu nó nơi người sứ ngôn (x.Ed 3,18). Số
phận các sứ ngôn từ trước đến nay dường như chẳng khác nhau bao nhiêu, chẳng
hạn như Êlia, Giêrêmia, Gioan Tẩy Giả…thảy đều có kết cục chẳng sáng sủa chút
nào.
Tuy nhiên làm sao để phân định rằng khi nào thì một ngôn sứ nói
lời chân lý do Chúa phán truyền? Đã là
ngôn sứ chính hiệu thì phải nói những gì Chúa phán dạy. Những gì Chúa phán dạy
luôn hướng đến điều tốt đẹp. “Đã nhổ thì phải biết trồng”; “Đã đập phá thì phải
biết dựng, biết xây” (x.Gr 1,10; 18,7-10). Ngôn sứ chính hiệu thì sau khi phê
phán những điều tiêu cực, những mặt hạn chế, lỗi lầm của con người, của xã hội,
thì luôn đề ra giải pháp khắc phục và biện pháp sửa sai.
Như thế, mục đích của sứ ngôn khi nói lời sự thật thì luôn nhằm
điều thiện hảo cho người nghe. Thánh Phaolô nói với tín hữu Côrintô rằng để mọi
hành vi của chúng ta có giá trị thì phải xuất phát từ một tấm lòng đầy đức mến.
“Giả như tôi được ơn nói tiên tri (làm ngôn sứ), và được biết hết mọi điều bí
nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà
không có đức mến thì tôi cũng chẳng là gì” (1Cr 13,2). Một ngôn sứ của Chúa thì
phải nói lời Chúa dạy. Lời Chúa dạy luôn là lời tình yêu, lời sự thật. Khi đã
nói lời sự thật, dù rằng khởi đầu bằng những hiện thực chẳng hay chẳng tốt về
tha nhân hay xã hội nhưng được kết thúc bằng những phương thế giúp nhau hoán
cải, đổi thay, thăng tiến. Ngôn sứ của Chúa thì luôn chân thành mong ước điều
tốt đẹp cho cả người mình phê phán hay góp ý. Và dĩ nhiên một trong những hệ
quả dù không mong cũng thường xảy đến đó là thập giá.
Giêrêmia đã phải hứng chịu nhiều nỗi truân chuyên khi làm kiếp
“tứ phía kinh hoàng” (x.Gr 20,4). Số phận của Vị Đại ngôn sứ là Giêsu
Kitô thì qua rõ ràng. Khi
thẳng thắn nói cho người đồng hương biết về tính phổ quát của ơn cứu độ, tức là
tình yêu của Thiên Chúa không dành riêng cho một ai, một dân tộc nào, một xứ sở
nào, thì Chúa Giêsu đã phải đón nhận sự phẫn nộ, đúng hơn là sự cuồng nộ của
dân Nagiarét. Sự ích kỷ đã làm cho tâm hồn người dân Nagiarét lúc bấy giờ ra mù
quáng. Ăn không được thì đập bỏ, chứ không cho kẻ khác hưởng nhờ chăng? Dù sao
đi nữa thì thái độ cuồng nộ đến nỗi bắt Chúa Giêsu đem lên núi để xô Người
xuống vực cho chết là một thái độ không thể hình dung, nhưng lại là sự thật.
Một vài nhà chú giải Thánh Kinh cho rằng Chúa Giêsu có hai lần
về Nagiarét. Một lần thì Người được tung hô, đón nhận, và lần khác thì bị tẩy
chay, ngược đãi. Thế nhưng, việc thánh sử Luca kể liền một mạch hai thái độ
trái ngược của người đồng hương Chúa Giêsu cũng nhắc nhớ cho ta thấy rõ lòng
người rất dễ đổi trắng thay đen, khi sự ích kỷ, nhỏ nhen ngự trị. Sau này dân
thành Giêrusalem cũng thế. Trước thì hoan hô, chúc tụng Con vua Đavit, thế mà
sau đó mấy ngày lại giơ cao nắm đấm, la gào: “đóng đinh, đóng đinh nó vào thập
giá”(x.Mt 21,9; 27,23).
Làm tất cả vì hạnh phúc người mình yêu, nói lời sự thật cho người
mình yêu và rồi sẵn sàng đón nhận sự ngược đãi, bách hại trong sự khoan dung,
tha thứ, chính là chân dung ngôn sứ thật. Tuyên phán những sự may lành thì
không khó, nhưng khi phải nói những điều chẳng hay, để giúp nhau thay đổi thì
quả là chẳng dễ chút nào, nhất là khi sự chẳng hay ấy lại liên hệ đến những
người có thể làm hại chúng ta cách này cách khác. Tuy nhiên đã là Kitô hữu thì
tất thảy chúng ta đều phải làm sứ ngôn cho Thiên Chúa. Đây là một sứ mạng không
thể khước từ hoặc cố tình xao nhãng hoặc tìm cách biện bạch để bỏ qua. Ước gì
không một ai trong chúng ta, cách riêng các mục tử trong Giáo hội, phải hứng
chịu lời tuyên án của Thiên Chúa khi Người đòi nợ máu của người gian ác trên
mình, vì đã không chu toàn sứ mạng ngôn sứ: nói lời tình yêu và nói lời sự
thật.
Lm. Giuse Nguyễn Văn
Nghĩa – Ban Mê Thuột.