TRẺ GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH GIÊRUSALEM
1. “Con có bổn
phận ở nhà của Cha con” (Lc 2: 49)
Chúa Giêsu vừa bước sang tuổi mười hai, độ tuổi mà theo người Do Thái thời
đó là khá trưởng thành về mặt đức tin. Người con trai rời bỏ tuổi thơ để hòa nhập
vào đời sống xã hội. Chúa Giêsu biểu lộ sự trưởng thành và tư thế tự do thực
thi ý Chúa Cha của mình. Cùng với cha mẹ lên Đền thờ Giêrusalem để mừng lễ Vượt
qua nhưng Ngài ở lại đó mà không báo cho cha mẹ biết. Mẹ Maria và Thánh Giuse tưởng
Ngài ở trong đoàn lữ hành, nhưng thực ra Ngài không ở trong đoàn người đó. Ngài
vượt ra khỏi khuôn khổ gia đình phàm nhân, khỏi mối liên hệ họ hàng trần gian,
vốn gắn bó với nề nếp và di sản của dòng tộc loài người. Ngài vượt lên khỏi những
thói quen và truyền thống của con người, khỏi Lề luật... Ngài thuộc về nơi
khác, thuộc về Thiên Chúa, Cha của Ngài, như trong bài đọc thứ nhất, bà Anna, mẹ
của ngôn sứ Samuel, đã nói với ông Encana, chồng bà: “Đợi cho đến khi đứa trẻ cai sữa đã. Khi đó em sẽ đưa nó đi, nó sẽ ra mắt
Chúa và sẽ ở lại đó mãi mãi” (1 Sm 1:22). Bà còn nói với tư tế Êli rằng: “Thưa ngài, xin thứ lỗi, tôi xin lấy mạng sống
ngài mà thề: tôi là người đàn bà đã đứng bên ngài, tại đây, để cầu nguyện với
Chúa. Tôi đã cầu nguyện để được đứa trẻ này, và Chúa đã ban cho tôi điều tôi đã
xin Ngài. Đến lượt tôi, tôi xin nhượng nó lại cho Chúa. Mọi ngày đời nó, nó sẽ
được nhượng cho Chúa” (1 Sm 1: 26-28). Chúa Giêsu biết rằng Ngài thuộc về
Thiên Chúa: “Cha mẹ không biết là con có
bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2:49). Dĩ nhiên, hai ông bà ngơ ngác
không hiểu! Nhưng sau đó, Chúa Giêsu trở về Nadarét cùng với cha mẹ. Tin Mừng
cho thấy Chúa Giêsu là một người trưởng thành như thế nào khi kết rằng: “Chúa Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm
cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2: 52).
Liệu Chúa Giêsu có phải là người con thoát ly gia đình ngay khi còn trẻ
không? Không phải thế, mà ngược lại, Ngài ở lại trong nhà Cha của mình, không
chạy trốn đâu hết. Nếu Thánh Giuse và Mẹ Maria ngạc nhiên, lo lắng, thì với
Chúa Giêsu, rõ ràng Đền Thờ là nơi Ngài phải đến, là nơi Ngài hiệp thông tự
nhiên với Chúa Cha.
Tại sao chúng ta phải đến nhà thờ? Chúng ta tìm kiếm gì ở đó? Đối với
nhiều Kitô hữu ngày nay, nhà thờ dường như là một nơi ít có sự thân thiết, ít
có tình huynh đệ cảm thông thực sự. Vì thế, chúng ta phải tìm lại cảm giác bình
an như trong gia đình, gần gũi với Chúa Cha và anh chị em mình. Điều gì sẽ xảy
ra nếu chúng ta cố gắng quay lại nhà thờ như trở về ngôi nhà thời thơ ấu đầy kỷ
niệm, nơi chúng ta tìm được lại chính mình là ai một cách sâu sắc, tìm thấy lại
gia đình mình ở đó? Trong nhà thờ, chúng ta có thể lắng nghe Lời Chúa, suy ngẫm,
rước lấy Mình Thánh Chúa Kitô, gặp gỡ những anh chị em Kitô hữu khác và rồi sau
đó được lớn lên trong sự khôn ngoan và ân sủng, ở chính nơi chúng ta sinh sống,
trong gia đình, trong môi trường làm việc của chúng ta. Nhà thờ có thể là nguồn
suối, nơi chúng ta gặp Chúa, gặp anh chị em chúng ta, chứ không chỉ đơn giản là
một bổn phận tôn giáo nặng tính bó buộc hay chỉ là những nghi lễ hình thức bên
ngoài chẳng mấy cảm xúc ấn tượng. Ở nhà thờ chúng ta có thể trở thành những người
con của Cha. Có lẽ những người thân yêu, bạn bè của chúng ta khó hiểu, nhưng chúng
ta nên giải thích cho họ rằng đó là một nơi tự nhiên đối với chúng ta, một nơi
thân thiết. Chúng ta hãy cầu xin rằng một ngày nào đó họ sẽ hiểu ra rằng người
ta hoàn toàn là chính mình chính khi ở nhà thờ. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho họ
được “ngạc nhiên” (Lc 2: 47) về chứng
tá niềm vui giản dị của chúng ta khi đến nhà thờ và thúc đẩy họ, đến lượt của họ,
bước vào trong nhà của Cha.
2. “Sau ba ngày,
hai ông bà mới tìm thấy con” (Lc 2: 46)
Việc Mẹ Maria và Thánh Giuse lạc mất và tìm gặp Con mình trong đền thờ
khi lên 12 tuổi đã phá tan sự im lặng từ khi Chúa Giêsu được sinh ra tới lúc Ngài
ra hoạt động công khai. Câu chuyện ghi chú rằng Mẹ Maria và Thánh Giuse khá lo
lắng vì “Không thấy con đâu” (Lc
2:45), nhưng sau ba ngày đã tìm thấy Ngài. Theo Sách Thánh, khoảng thời gian ba
ngày này đầy ý nghĩa vì đây là ngày đặc biệt mà Thiên Chúa tạo ra sự sống mới
và thiết giao ước của mình với nhân loại, qua Israel. Thiên Chúa ngự xuống trên
Núi Xinai vào ngày thứ ba: “Chúa phán với
ông Môsê: Hãy đến với dân và bảo họ: hôm nay và ngày mai phải giữ mình cho khỏi
nhiễm uế, phải giặt quần áo, và đến ngày kia phải sẵn sàng, vì ngày kia Chúa sẽ
ngự xuống trên núi Xinai trước mắt toàn dân… Đến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có
sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh…Cả núi Xinai
nghi ngút khói, vì Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa
và cả núi rung chuyển mạnh. Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất mạnh. Ông Môsê
nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. Chúa ngự xuống trên núi Xinai, trên
đỉnh núi” (Xh 19:10-20). Cũng như câu chuyện Giôna ở trong bụng con cá lớn
3 ngày: “Chúa khiến một con cá lớn nuốt
ông Giôna. Ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Từ trong bụng cá, ông Giôna
cầu nguyện cùng Chúa, Thiên Chúa của ông. Ông nói: Từ cảnh ngặt nghèo, tôi kêu
lên Chúa, Ngài đã thương đáp lời. Lạy Chúa, từ lòng âm phủ, con cầu cứu, Ngài
đã nghe tiếng con” (2:1-3). Ngôn sứ Hôsê cũng ghi nhận việc Chúa hoàn lại
cho Israel sự sống vào ngày thứ ba: “Ngài
đã xé nát thân chúng ta, nhưng rồi lại chữa lành. Ngài đã đánh đập chúng ta,
nhưng rồi lại băng bó vết thương. Sau hai ngày, Ngài sẽ hoàn lại cho chúng ta sự
sống; ngày thứ ba, sẽ cho chúng ta trỗi dậy, và chúng ta sẽ được sống trước nhan
Ngài” (6: 1-2). Như thế ý tưởng chết đi rồi sống lại vào ngày thứ ba đã bắt
đầu từ lâu trong Cựu Ước. Mẹ Maria đã phải xa cách Con mình ba ngày trước khi
tìm lại được. Hẳn là điều này ám chỉ khoảng thời gian Chúa Giêsu được mai táng
trước khi sống lại. Hơn nữa, Tân Ước cho biết rằng biến cố Tử nạn và Phục sinh của
Chúa Giêsu diễn ra tại Giêrusalem, nơi Ngài hoàn tất công việc mà Chúa Cha đã định
trước. Mẹ Maria và Thánh Giuse đã phải cực lòng như thể Chúa Giêsu đã mất ba
ngày rồi: “Con thấy không, cha con và mẹ
đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2: 48). Đúng là Chúa Giêsu đã được Chúa
Cha định trước phải chết, ngay lúc còn nhỏ, nhưng đến “ngày thứ ba Ngài sống lại như lời Thánh Kinh. Ngài lên trời, ngự bên hữu
Ðức Chúa Cha” (Kinh tin kính Nicea, được đọc trong thánh lễ Chúa nhật và lễ
trọng).
Một trong những nỗi buồn chán trong cuộc đời là cảm thấy cuộc sống của
chúng ta không đi đến đâu cả, không có ý nghĩa gì cả. Chúng ta mơ - với một
chút mơ hồ - sẽ đạt được điều gì đó thực sự tuyệt vời và có giá trị trường tồn.
Nhưng rồi chúng ta thức dậy và mọi thứ cứ thật nhỏ nhoi, tầm thường và vô
nghĩa. Chúng ta được dựng nên để sống với khát khao về một ý nghĩa, một mục
đích, một vận mệnh quan trọng. Chúng ta mong muốn rằng những gì đang xảy ra
trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, bất kể tầm thường và bình thường đến
đâu, đều là một bước dẫn tới một điều tuyệt vời, tốt đẹp và tươi sáng vào ngày
mai, chứ không phải sinh ra để chờ chết, chết không ý nghĩa, không giá trị, chỉ
là tuyệt vọng mãi mãi.
Chúa Giêsu cũng được sinh ra để rồi cũng phải chết, nhưng cái chết của
Ngài làm cho hiện hữu của mọi người và mỗi người tràn đầy giá trị, ý nghĩa và
hy vọng vào sự sống đời đời vinh quang sau cái chết thể lý. Nhờ cái chết vì yêu
thương của Chúa Giêsu, “là của lễ đền bù
tội lỗi chúng ta” (1 Ga 2:2) mà chúng ta được giải thoát trọn vẹn khỏi số
phận “ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử
thần” (Lc 1:79), không còn lệ thuộc thế gian chóng qua, nhưng “nhờ đức tin, tất cả đều là con cái Thiên
Chúa trong Chúa Giêsu Kitô” (Gl 3:26),
thuộc về Chúa Cha, “ở nhà của Cha” (Lc
2:49). Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta thấy vận mệnh quan trọng và tươi sáng đó
nhờ cái chết theo đúng kỳ hạn của Chúa Giêsu: “Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô
đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta…ngay khi chúng ta còn
là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta”
(Rm 5: 5-8). Thánh Gioan trong bài đọc thứ hai còn nhấn mạnh: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường
nào: Ngài yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa - mà thực sự
chúng ta là con Thiên Chúa” (1 Ga 3:1).
3. “Thêm khôn ngoan, ân nghĩa với Thiên Chúa và
người ta” (Lc 2:52)
Ở đây một lần nữa Thánh Luca cho thấy Chúa Giêsu phát triển rất bình thường,
có quá trình trưởng thành như một người bình thường. Với Ngài, cũng như với những
người khác, sự khôn ngoan ngày càng phát triển theo năm tháng, và đi vào tâm hồn
con người của Ngài như đi vào tâm hồn của những người khác - ví dụ, qua sự hướng
dẫn ở trường học Nadarét, qua các buổi nghe Sách Thánh ở hội đường của cộng đồng
- điểm khác biệt là trong mọi giai đoạn lớn lên, Ngài đều đạt đến sự hoàn hảo về
sự khôn ngoan, đạo đức và tâm linh của giai đoạn đó; không có tội lỗi, sự ích kỷ
hay kiêu ngạo nào trong Ngài, vốn là những điều ngăn cản sự khôn ngoan phát triển
nơi những người khác.
Bản tính thần linh của Chúa Giêsu mãi mãi hoàn hảo nên không thể có sự
tăng thêm. Việc ngày càng thêm khôn ngoan, thêm ân nghĩa được thánh Luca nói đến
ở đây chỉ liên quan đến bản tính con người của Chúa Giêsu, bao gồm một linh hồn
có lý tính và một thân xác con người. Thân thể Ngài tăng trưởng về vóc dáng và sức
nặng, và linh hồn Ngài tăng trưởng về sự khôn ngoan và về tất cả các tư chất của
một tinh thần con người. Bản tính con người của Chúa Giêsu nhận được sự sáng soi
tỏ tường và tiệm tiến khi Ngài dần lớn lên. Mặc dù Ngôi Lời vĩnh cửu đã kết hợp
với linh hồn nhân loại của Ngài ngay từ khi Ngài mới sinh ra, đúng hơn là ngay
khi Ngài tượng thai trong cung lòng Mẹ Maria, nhưng thần tính ngự trong Ngài đã
tự biểu lộ ra cùng với nhân tính của Ngài tùy theo từng giai đoạn, quidquid recipitur ad modum recipientis recipitur - bất cứ điều gì nhận được đều được nhận theo cách của người nhận, nghĩa
là tùy mức độ nhân tính đó có khả năng tiếp nhận bao nhiêu phẩm tính thần linh; và khi các khả năng của
linh hồn nhân loại của Ngài ngày càng triển nở, thì sự thông truyền hiểu biết,
sự khôn ngoan và các ân tứ khác lớn hơn từ thần tính được thông truyền cho nhân
tính đó. Và Ngài “thêm ân nghĩa đối với
Thiên Chúa và người ta” (Lc 2: 52) nghĩa là, Ngài có được tất cả những ân sủng
khiến Ngài được cả Thiên Chúa và con người chấp nhận. Tất cả những điều này phù
hợp với phận người khiêm hạ của Ngài; vì khi Ngài hạ mình xuống làm một trẻ sơ
sinh, dần lớn lên thành một trẻ em, rồi trở thành một thanh niên, thì hình ảnh
của Thiên Chúa tỏa sáng dần lên trong Ngài khi Ngài lớn lên thành một thanh
niên, hơn là khi Ngài còn là một trẻ sơ sinh và một trẻ em.
Chúng ta hãy cầu xin cho con cháu của chúng ta, những người trẻ, khi họ
lớn lên về vóc dáng, họ cũng được lớn lên về sự khôn ngoan và ân sủng; và rồi,
khi họ lớn lên về sự khôn ngoan và ân sủng, họ cũng lớn lên trong “ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta”
(Lc 2: 52).
Chúng ta cũng cầu xin, như thánh Gioan trong bài đọc thứ hai, cho chính
mỗi người chúng ta cũng lớn lên trong “ân
nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta”, nghĩa là biết “tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa…ở lại trong Thiên Chúa…và biết được
Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí Ngài đã ban cho chúng ta”
(1 Ga 3: 24) để rồi chúng ta thực hành lời căn dặn của Thánh Phaolô: “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu,
khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong
anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh
em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính,
anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3:12-14).
Cụ thể chúng ta biến đổi gia đình mình thành một gia đình thánh theo gương mẫu
Thánh Gia: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng,
như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ
đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là
điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo
chúng ngã lòng” (Cl 3:18-21).
Phêrô Phạm Văn Trung.
Tác giả:
Phêrô Phạm Văn Trung
|