Một trong những nghịch lý lớn trong Tin Mừng là vấn đề bình an. Một mặt,
Chúa Giêsu nói trong Bữa Tiệc Ly: “Thầy để
lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14:27); mặt
khác, khi Ngài sai 72 môn đệ đi, Ngài nói, “Anh
em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem
bình an, nhưng để đem gươm giáo” (Mt 10: 34) và mô tả rằng vì Ngài, ngay cả
các gia đình cũng sẽ bị chia rẽ.
Ngài đến để mang lại bình an hay chia rẽ, đoàn kết hay phân tán?
Ngài đã đến rõ ràng như là “Thủ
Lãnh hoà bình” (Is 9:5) để thực hiện những gì các thiên thần đã hát vào ngày
Ngài được sinh ra, “Bình an dưới thế cho
loài người Chúa thương” (Lc 2:14). Ngài đã mang lấy bản tính con người của
chúng ta trong chính xác thân xác của Ngài để thiết lập giao ước hòa giải dứt
khoát giữa Thiên Chúa và nhân loại. Ngài đã đến để “dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1:79).
Nhưng Ngài đã để mỗi người được tự do. Không phải ai cũng sẽ chọn đi
theo Ngài trên con đường bình an. Không phải ai cũng sẽ tin hoặc chấp nhận những
gì Ngài mô tả là điều kiện thiết yếu của bình an. Trên thực tế, nhiều người sẽ quyết
làm ngược lại với những gì Chúa Giêsu nói - và có bao nhiêu sự chia rẽ phát
sinh từ con đường như vậy.
Chúng ta hãy khám phá năm điều Chúa Giêsu bộc lộ về con đường dẫn đến
bình an. Chúa Giêsu đã nói, “Thầy ban cho
anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14:27), và vì vậy những yếu tố này
khác với những gì chúng ta học được trong khóa đào tạo về đối ngoại. Nhưng cũng
giống như Ngài đã đảo ngược logic thế gian về mặt hạnh phúc trong bài giảng các
mối phúc, Chúa Giêsu cũng làm như vậy về kế hoạch hòa bình của Ngài cho một thế
giới đầy rẫy xung đột.
Đầu tiên là ưu tiên cho
Thiên Chúa. Sau khi Chúa Gieêu mô tả rằng Ngài “đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo” (Mt 10: 34),
Ngài nói rõ, “Quả vậy, Thầy đến để gây
chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng.
Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10: 35-36). Điều này không có nghĩa
Chúa Giêsu đến để chia rẽ: Ngài đến để tập họp muôn dân và cứu độ họ.
Nhưng không phải ai cũng chấp nhận lời đề nghị của Ngài. Có người chấp
nhận, có người không. Đây là khởi đầu sự chia rẽ. Chúng ta thấy sự chia rẽ mà Ngài
đã báo trước trong các gia đình, ví dụ, trong sự ganh ghét mà những người chồng
cảm thấy khi vợ họ bắt đầu dành nhiều thời gian hơn với Chúa Giêsu trong lời cầu
nguyện, hoặc những lời trêu chọc tàn bạo mà những thiếu niên sẽ nhận được khi họ
thông báo với bạn bè của mình rằng họ nghĩ rằng Thiên Chúa có thể đang kêu gọi
họ đến với chức linh mục hoặc đời sống thánh hiến. Những người không đặt Thiên
Chúa lên hàng đầu thường sẽ không thích những ưu tiên mới. Đó là một thách thức
gián tiếp đối với họ, và thường thì họ sẽ phản ứng giống cách hầu hết trẻ mẫu
giáo làm với những vật nuôi của giáo viên, chỉ vì người khác tốt lành. Những
người không muốn ưu tiên Thiên Chúa thường không khoan dung với những người làm
như vậy.
Ở cấp độ vĩ mô, chúng ta thấy sự thiếu vắng bình an đến từ những người
không muốn dành cho Thiên Chúa những gì Ngài đáng được hưởng. Các nhà sử học
cho chúng ta biết rằng về mặt định lượng thế kỷ XX là thế kỷ bạo lực nhất trong
lịch sử nhân loại, với số người bị hành quyết nhiều hơn tất cả các thế kỷ trước
cộng lại. Chúng ta biết rằng cuộc tắm máu ghê tởm đó được thực hiện thả giàn không
phải nhân danh tôn giáo, mà dưới ngọn cờ của nhiều chế độ thế tục, phản tôn
giáo hoặc vô thần rõ ràng như chúng ta đã thấy dưới thời Stalin, Hitler,
Ataturk, Pol Pot và những người khác. Nếu việc hiểu sai tôn giáo đôi khi dẫn đến
bạo lực, thì việc ngăn chặn và đàn áp tôn giáo chỉ dựa trên lối nghĩ theo kinh
nghiệm cá nhân thì còn tệ hơn. Trong khi tôn giáo không thành công trong việc
kiềm chế khuynh hướng bạo lực của mọi tín hữu, thì việc không có tôn giáo - sống
thực tế như thể Thiên Chúa không tồn tại - lại thành công ít hơn nhiều.
Ưu tiên Thiên Chúa không chỉ có nghĩa là thừa nhận sự hiện hữu của Ngài
mà còn là cầu nguyện. Năm 2011, trong buổi canh thức trước lễ kỷ niệm 25 năm Ngày
Liên tôn Cầu nguyện cho Hoà bình tại Assisi nổi tiếng do Đức Gioan Phaolô II khởi
xướng, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô đã nói, “Sự
đóng góp quý giá nhất mà chúng ta có thể làm cho sự nghiệp hòa bình là cầu nguyện.”
Cầu nguyện giúp chúng ta trở nên giống Thiên Chúa hơn, Đấng mà chúng ta hướng đến.
Cầu nguyện giúp chúng ta có khả năng hơn nhiều trong việc nhận ra rằng những
người mà chúng ta có thể có xung đột không phải là kẻ thù mà là những người đồng
loại được Thiên Chúa tạo dựng và yêu thương, để chúng ta sẽ đối xử với họ không
giống như cách Cain đối xử với Abel mà giống như cách Giuse đối xử với những
người anh em của mình ở Ai Cập.
Điều thứ hai Chúa Giêsu
bộc lộ là mối liên hệ giữa bình an và việc tuân theo các điều răn của Ngài.
Ngay trước khi Chúa Giêsu nói: “Ta để lại
bình an cho các con. Ta ban cho các con sự bình an của Ta,” Ngài đã nói về
việc tuân giữ lời và các điều răn của Ngài, trước khi nói thêm: “Nếu các con giữ các điều răn của Ta, các con
sẽ ở lại trong tình yêu của Ta” (Ga 14:21; Ga 15:10). Chúng ta sẽ không bao
giờ có bình an nếu không có tình yêu, và Chúa Giêsu tuyên bố rằng tất cả các điều
răn đều dựa trên điều răn kép là yêu Chúa và yêu người lân cận (Mt 22:40).
Chúng ta thấy mối liên hệ này rất dễ dàng trong thực tế. Sẽ có nhiều bình an hơn
biết bao nếu mọi người chỉ cần tuân giữ Mười Điều Răn tối thiểu: sẽ không có giết
người, hận thù, gia đình tan vỡ hoặc bị thương, trộm cắp, nói dối hoặc đố kỵ. Sẽ
có sự tôn trọng giữa các thế hệ. Mọi người sẽ dành thời gian để đặt Thiên Chúa
lên hàng đầu trong cuộc sống của họ, và để ngợi khen và thờ phượng Ngài. Đây là
những nguyên tắc cơ bản để đạt được sự bình an mà thế gian không thể cho hoặc
cướp mất.
Thực hành thứ ba là cầu
mong bình an. Khi Chúa Giêsu sai 12 tông đồ và sau đó là 72 môn đệ đi, Ngài đã bảo họ
khi vào nhà nào đó hãy cầu mong bình an, hứa rằng nếu có người hiền hòa sống ở
đó, bình an sẽ tồn tại (Mt 10:13; Lc 10:5). Lưu ý rằng Chúa Giêsu không nói, “Hãy
điều tra xem trước tiên có người hiền hòa ở đó không”. Ngài muốn chúng ta cầu
mong bình an cho mọi người, có suy nghĩ tích cực về những người chúng ta sẽ gặp.
Đây là điều hoàn toàn trái ngược với sự nghi ngờ thường xảy ra giữa những người
không biết nhau, hoặc những người đến từ những nơi khác nhau, dân tộc, chủng tộc,
văn hóa hoặc tôn giáo. Trong khi Chúa Giêsu sai các môn đồ của mình đi như “những con chiên giữa bầy sói” (Lc 10,
1-9), Ngài đã sai chúng ta đi mà không hề hoang tưởng rằng mọi người đều là
sói. Ngài muốn chúng ta thấy rằng điều tốt nhất là những người đó có thể nhận
được bình an. Ngài muốn chúng ta trở thành khí cụ của bình an, gieo bình an để
gặt bình an.
Nhưng Ngài muốn chúng ta phải hơn thế nữa, không chỉ là “những người
mong muốn hòa bình”. Ngài kêu gọi chúng ta trở thành người xây dựng hòa bình: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình” (Mt
5:9), Ngài nói rằng những người xây dựng hòa bình sẽ được gọi là con cái đích
thực của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng xây dựng hòa bình và chúng ta được kêu
gọi trở thành những người con giống cha như tạc. Đây là thực hành thứ tư. Xây dựng hòa bình có nghĩa là gì? Chúa
Giêsu mô tả nhiều điều kiện khác nhau. Điều đó có nghĩa là yêu thương kẻ thù của
chúng ta, cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta, làm điều tốt cho những kẻ
làm điều ác. Điều đó có nghĩa là đáp trả bằng vũ khí của tình yêu, lòng thương
xót và sự tha thứ thay vì gươm giáo. Điều đó có nghĩa là học hỏi và noi gương
Chúa Giêsu, Đấng đã thiết lập hòa bình cuối cùng thông qua việc chết cho những
người đang gây chiến với Ngài, với Thiên Chúa và với những người khác qua tội lỗi.
Để trở thành người xây dựng hòa bình, chúng ta phải ngăn chặn vòng xoáy trả
thù. Chúng ta không bao giờ được quên phẩm giá của mỗi người được Thiên Chúa
yêu thương, ngay cả khi người kia quên. Chúng ta phải vượt qua sự ích kỷ, đố kỵ,
kiêu ngạo, tức giận và lòng tham và kiên nhẫn xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ,
đoàn kết và tình anh em, ngay cả khi những người khác chống đối. Chúng ta phải
noi gương lòng thương xót bền bỉ của Thiên Chúa, tìm cách hòa giải tha thứ như
chúng ta đã được hòa giải tha thứ bảy mươi lần bảy.
Điều này rõ ràng là khó. Một số người thậm chí còn nói rằng điều đó là
không thể đối với con người. Điều đó đưa chúng ta đến với thực hành cuối cùng: Hợp tác với Chúa Thánh Thần. Vào đêm
Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, Ngài đã bước qua cánh cửa đóng kín của Phòng
Tiệc Ly và hai lần chúc các tông đồ đang sợ hãi “Shalom - Bình an cho anh em”
(Ga 20: 21). Sau đó, Ngài tìm cách biến họ thành những người xây dựng hòa bình.
Người thổi hơi Chúa Thánh Thần vào họ và nói: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:19-23).
Chúa Giêsu đã sai họ đi với quyền năng của chính Thiên Chúa để tạo ra hòa
bình thông qua sự tha thứ và hòa giải. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói trong một
bài giảng cách đây vài năm rằng sự bình an mà Chúa Giêsu để lại, ban tặng và thổi
vào về cơ bản là Chúa Thánh Thần. Khi Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta, Ngài
giúp chúng ta trải nghiệm những gì Thánh Phaolô liệt kê là “hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc,
bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gal 5:
22-23). Hoa trái đó không chỉ đơn thuần là chủ quan, thấm nhập chúng ta bằng những
phẩm chất đó. Hoa trái đó tác động đến mối tương quan của chúng ta với người
khác và giúp chúng ta ưu tiên Thiên Chúa, tuân giữ các điều răn của Ngài, mong
muốn hòa bình cho mọi người và kiên trì tạo ra hòa bình.
Giữa quá nhiều xung đột, khi lưỡi gươm chia rẽ cắt sâu vào cá nhân, gia
đình, xã hội và thế giới, kế hoạch hòa bình lâu đời của Chúa Giêsu cần thiết
hơn bao giờ hết. Bây giờ là lúc để theo Ngài trên con đường hòa bình mà Ngài đã
bộc lộ và lôi kéo những người khác cùng đi trên con đường đó.
Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em!
Tác giả: LM Roger J. Landry
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung
https://catholicpreaching.com