1. Chê Ghét Tội Lỗi & Sám
Hối
Chê ghét tội lỗi không phải là sự ăn
năn trọn vẹn; hoặc nếu có, thì sự ăn năn như vậy chỉ có kết quả nếu nó đi
kèm với sự tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Khi Giuđa xét lại tội lỗi mình đã
phạm, ông ta kinh hoàng. Túi tiền ông ta mang theo thiêu đốt ông ta đến
nỗi tay ông ta không thể cầm nó theo nữa. Ông ta lang thang, tiều tụy, mất
một thời gian, trong thành phố đang say ngủ, rồi đi tìm thầy thượng tế. Ông
ta kêu lên: “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Ngài phải chết oan.” Ông
kinh hoàng về tội lỗi của mình. Như trường hợp của Đavít, “Ngày đêm lỗi
lầm con luôn ở trước mặt”. Làm thế nào mà sự ăn năn của ông lại quá non
yếu như thế?
Phêrô cũng phạm tội, phạm tội cách
nặng nề; nhưng ngay khi nhận ra điều mình đã làm, Phêrô đã không nghi ngờ
rằng Thầy của mình sẽ tha thứ cho mình. Chỉ cần nhìn thấy Ngài chốc lát
trong đại sảnh của Caipha là đủ. Đối với Phêrô, đó là một biểu hiện tối
cao của lòng thương xót tối cao. Chúa Giêsu không nói gì với Phêrô, Phêrô
cũng không nói gì với Ngài; nhưng cái nhìn của Phêrô thốt lên một tiếng
kêu xin thương xót, và cái nhìn của Chúa Giêsu tha thứ một cách rõ ràng và mạnh
mẽ; và Phêrô đã được cứu.
Giuđa thiếu điều gì? Ghê tởm
tội lỗi của mình? Không phải thế. Ông ta thiếu hiểu biết về tình yêu của Thầy
mình. Giuđa không tin vào tình yêu. Tất cả sự khác biệt giữa một tội
nhân vĩ đại và một vị thánh vĩ đại có thể chỉ là một hành vi tin tưởng đơn thành.
2. Hướng Về Chúa
Hành động theo bản năng của tội nhân
thường không hướng về Thiên Chúa nhưng trốn tránh Ngài. Thiên Chúa rất tinh
sạch, còn chúng ta đầy tội nhơ. Chúng ta sợ làm mất lòng Thiên Chúa, và
chúng ta tưởng tượng một cách điên rồ rằng Thiên Chúa sẽ khó tìm thấy chúng ta
hơn nếu chúng ta “giả vờ chết” và trốn tránh Ngài. Để vượt qua nỗi sợ hãi
kép đang làm chúng ta tê liệt này, chúng ta cần có một đức tin lớn lao
và sự khiêm tốn sâu sắc, sự hiểu biết sâu sắc về các khả năng của chính chúng
ta và về lòng nhân từ vô hạn của Thiên Chúa
Trên thực tế, điều mà những linh hồn,
vốn đã sa ngã trong giây lát và đang hàng ngày cảm nhận sự yếu đuối của chính
họ, cần có là sự tin tưởng. Và nơi điều này, rất ít người biết cách gõ một
cách chính xác vào nốt nhạc đúng. Vì nếu sự tin tưởng thái
quá là một sự cám dỗ quen thuộc với những kẻ tội lỗi - “Đừng sợ; Thiên Chúa
sẽ luôn tha thứ cho bạn” – thì sự thiếu tin tưởng thái quá lại là lỗi thường
xuyên xảy ra nơi những linh hồn, mặc dù yếu đuối, nhưng vẫn khao khát phục vụ
Chúa: “Làm sao Chúa có thể tha thứ cho tôi sự thiếu suy nghĩ như vậy!”
Những tâm hồn nhát sợ như vậy có thể
thấy những lời sau đây của Nữ chân phúc Julian thành Norwich là hữu ích:
· Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn thấy
tình yêu của Ngài trong mọi sự. Đây là chỗ chúng ta rất mù quáng. Một
số người trong chúng ta sẵn sàng tin rằng Thiên Chúa toàn năng và khôn
ngoan; nhưng họ lại không nhận ra Ngài hoàn toàn là tình yêu. Và
chính điều này ngăn cản nhiều người vốn yêu mến Thiên Chúa không thể tiến
bộ. Một người bắt đầu ghê tởm tội lỗi và cải tà quy chánh; nhưng vẫn
còn một nỗi sợ hãi gây tê liệt; đối với một số người, đó là ý nghĩ về
những tội lỗi trong cuộc sống quá khứ của họ; đối với những người khác, đó
sẽ là những lỗi lầm mà họ mắc phải hàng ngày khi họ phá bỏ những quyết tâm tốt lành
của mình. Nỗi sợ hãi này đôi khi được coi là sự khiêm tốn; trong thực
tế đó là và sự mù quáng trơ lì và ngu xuẩn. Giống như Thiên Chúa dịu dàng
tha thứ những tội lỗi của chúng ta ngay sau khi chúng ta ăn năn về những tội
lỗi ấy, thì Ngài cũng muốn chúng ta tha thứ những tội lỗi ấy, và không mất thời
gian để tự mạ lỵ mình và lo lắng đến tê liệt.
Nữ chân phúc Julian thành Norwich,
Những mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa. [1]
Chắc chắn Thiên Chúa thì công bằng; Ngài
sở hữu vô hạn phẩm tính này khiến Ngài đòi hỏi sự tôn kính dành cho Ngài từ thụ
tạo tự do của Ngài, và trừng phạt thụ tạo đó tương ứng với tội lỗi của nó trong
trường hợp nó nổi loạn. Nhưng nếu Thiên Chúa công bằng, thì Ngài cũng là
lòng thương xót, và lòng thương xót cũng vô tận. Phẩm tính này không nhằm tiết
chế phẩm tính kia, như chúng ta tưởng tượng theo cách non nớt của
mình. Nơi Thiên Chúa, hai phẩm tính này được đồng nhất trong một thực tại
tối cao. Tốt hơn nên nói: “Thiên Chúa là công lý, Thiên Chúa là lòng
thương xót” hơn là “Thiên Chúa có công lý, Thiên Chúa có lòng thương
xót”. Vì trong tâm trí, chúng ta có thể đối lập phẩm tính này với phẩm
tính kia - và đúng thế, đến một mức nào đó – người ta có thể lưu ý rằng, mặc dù
hai phẩm tính đó không thể tách rời nhau trong Thiên Chúa, nhưng phẩm tính này có
thể tự biểu hiện rõ ràng hơn phẩm tính kia, trong những trường hợp nhất định.
3. Lòng Chúa Thương Xót
Vì vậy, trong cuộc sống của con
người trên trần thế, lòng thương xót của Thiên Chúa thể hiện vượt trội hơn. Thiên
Chúa có thể chờ đợi; Ngài có tất cả sự vĩnh cửu. Ngài chờ đợi thời cơ
của mình, hy vọng những con chiên đi lang thang quay về. Nếu tội nhân vẫn
tiếp tục lạc lối và nếu sự gian ác của người ấy vượt quá lòng thương xót của
Thiên Chúa, thì công lý phải can thiệp để điều chỉnh lại cán cân. Thiên
Chúa sẽ không bị nhạo báng đời đời. Cho phép con người chống lại ân sủng
của Ngài đã là một việc lớn rồi. Nhưng bây giờ thụ tạo này đã cố ý từ bỏ
mục đích cuối cùng của mình và tự cam chịu hình phạt đời đời. Không phải Thiên
Chúa đọa đầy người ấy; chính con người tự đọa đầy mình. Con người một
mình chịu trách nhiệm cho sự đau khổ mãi mãi của mình.
Nhưng trong trường hợp như vậy, Thiên
Chúa lại không quan tâm chăm sóc đứa con hoang đàng cho đến khi nó đóng dấu số
phận của chính mình hay sao? Đây có lẽ là lúc dành cho những giọt nước mắt
muôn đời biết ơn nếu linh hồn vốn lạc mất đó vẫn còn có khả năng khóc lóc trong
sự biết ơn. Ngay cả mối đe dọa của địa ngục cũng là một sự thương xót lớn
lao. Đối với những người bị mê hoặc bởi sự cám dỗ của tội lỗi, đã quên
cách yêu mến Thiên Chúa, thì nỗi sợ hãi về hình phạt đời đời có thể là một
phương tiện để ăn năn sinh ích cứu độ.
Nhưng nếu đứa con hoang đàng, dù có
gian ác đến đâu, dù có xa cách cha mình bao lâu, nhưng vẫn chấp nhận xin sự tha
thứ, thì Thiên Chúa không thể trừng phạt nó nữa. Péguy [2] đã mô tả một
cách độc đáo và mạnh mẽ những đòi hỏi về phép công bằng của Thiên Chúa và sự
chiến thắng của lòng thương xót của Ngài ngay khi tội nhân cầu xin lòng xót thương. Ông
nói, Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta như người cha đã phán xét đứa con hoang
đàng. [3]
Ý tưởng yêu thích của Péguy là sự
tin cậy vào Thiên Chúa không có một vị trí đủ nổi bật trong lời kinh thống hối
của chúng ta:
· Tại sao lại run sợ khi nghĩ đến Thiên
Chúa? Chúng ta có nghĩ rằng Ngài dành thời gian để gài bẫy chúng ta và vui
vẻ khi chúng ta sa ngã không? Tại sao chúng ta lại tiêu hao mòn mỏi chính
mình bằng sự lo lắng? Những tội lỗi này khiến chúng ta lo lắng quá nhiều,
lẽ ra chúng ta không nên phạm phải; nhưng bây giờ thì đã quá
muộn; ngày hôm qua đã qua, hãy nghĩ đến ngày mai. Khi khách hành
hương đã đi trên con đường lầy lội, trước khi bước qua ngưỡng cửa nhà thờ, họ
cẩn thận lau chân. Nhưng một khi đã ở trong nhà thờ, người ấy không còn
nghĩ đến đôi chân của mình nữa. Người ấy có đôi mắt và không nghĩ gì khác
ngoài bàn thờ nơi Chúa Giêsu Kitô thực sự hiện diện. Chúng ta đúng là tội
nhân; nhưng nếu chúng ta không ngó ngàng gì tới tất cả các tội nhân, thì
sẽ chỉ còn lại rất ít Kitô hữu. Có ba nhân đức đối thần. Đức tin và đức
ái là hai chị em nhiều tuổi hơn, và giữa hai người chị ấy là một người em trẻ
trung, đó là đức trông cậy. Hai chị đi trước, bận
rộn với thời gian hiện tại. Người em còn lại nắm giữ chuyến tàu, bận rộn
với tương lai.
Đức
trông cậy làm nên điều kỳ
diệu; nó làm cho linh hồn nên mới từ linh hồn cũ. “Tôi chỗi dậy về
với cha tôi”. Đức trông cậy không đỏ mặt khi tìm kiếm con người ngay cả
trong sự xấu hổ của tội lỗi. Không có nhân đức nào tích cực hơn nhân đức này trong cõi lòng con
người. Đức trông cậy giống như một nữ tu Tiểu muội của Những người nghèo
không ngại chăm sóc một người bệnh. Chính khi cõi lòng đau bệnh vì tội lỗi
và hổ thẹn thì niềm trông cậy mới nở hoa. “Tôi chỗi dậy về với cha tôi”.
Làm thế nào mà mùa xuân Hy vọng này không ngừng tuôn tràn, và tuôn
tràn tươi trẻ mãi mãi, tinh khiết mãi mãi, tươi mới mãi mãi? Mùa xuân Hy vọng này lấy
đâu ra nhiều nước trong lành thế? Phải chăng mùa
xuân ấy có thể tạo ra nước trong lành như ý nó muốn? Không phải thế: bí quyết
của mùa xuân không có gì khó hiểu cả. Nếu muốn có nước
trong vắt để tạo ra những dòng suối trong vắt của mình, mùa xuân sẽ không bao
giờ thấy đủ nước trong lành nơi toàn bộ các thụ tạo. Nhưng chính từ thứ
nước đục ngầu mà mùa xuân tạo ra những dòng nước tinh khiết của mình, và do đó mùa
xuân sẽ không bao giờ thiếu nước
tinh khiết.
Nền thần học về niềm hy vọng này, tuy
dân dã, nhưng đồng thời lại cao cả, cần làm cho mọi người trở nên quen thuộc,
đặc biệt ngày nay.
Chú thích :
[1] Sinh khoảng năm 1343 – mất sau năm 1416, còn được gọi
là Juliana thành Norwich, Quý bà Julian,
Dame Julian hoặc Mẹ Julian, là một nữ ẩn sĩ người Anh thời Trung Cổ. Các tác phẩm
của bà, hiện được gọi là Những mặc khải về
tình yêu của Thiên Chúa, là những tác phẩm bằng tiếng Anh sớm nhất còn sót
lại của một phụ nữ, một nữ ẩn sĩ.
[2] Charles Pierre Péguy sinh ngày 7 tháng 1 năm 1873, mất
ngày 5 tháng 9 năm 1914, là một nhà thơ, nhà tiểu luận và biên tập viên người
Pháp. Hai triết lý chính của ông là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc; muộn
nhất là vào năm 1908, sau nhiều năm theo thuyết bất khả tri đầy băn khoăn, ông
đã trở thành một tín hữu Công giáo La Mã (nhưng nói chung không giữ đạo). Từ
đó, đạo Công giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến các tác phẩm của ông.
[3]
“The Mystery of the Holy Innocents - Mầu nhiệm các Thánh Anh Hài” Communio 26,
1999, Pansy Pakenham (Translator), Alexander Dru (Introduction).
Tác giả: LM Raoul Plus, SJ.
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung.
Từ:
https://catholicexchange.com