HY VỌNG VÀO THIÊN CHÚA, ĐẤNG ĐANG ĐẾN GIỮA DÂN NGÀI
Chúng ta đang sống trong một thế giới bị ảnh hưởng tiêu cực từ các loại khủng
hoảng khác nhau về kinh tế, xã hội, văn hóa. Vẫn còn rất nhiều người rơi vào những
hoàn cảnh tưởng chừng như vô vọng. Cá nhân mỗi người cũng có những nỗi niềm băn
khoăn, phiền muộn, lo lắng, ưu tư của riêng mình. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi
chúng ta mở lòng đón nhận năm thương xót 2025, với chủ đề: “Những người hành hương
của Hy Vọng”. Sắc chỉ khởi đầu bằng cụm từ “Spes non confundit, Hy vọng không
làm thất vọng.” Đó là lời mời gọi mỗi người, dù cuộc sống còn lắm thử thách, vẫn
giữ vững niềm tin tưởng và hy vọng. Đức Thánh Cha Phanxicô chọn chủ đề này là để
khơi dậy niềm hy vọng trong một thế giới bị xâu xé bởi chia rẽ, chiến tranh, bất
bao dung, xung đột, xáo trộn và khủng hoảng, nhất là trong đời sống gia đình.
1. Giữ vững sự
tin tưởng và niềm hy vọng của chúng ta.
Trong bối cảnh xã hội đầy bất ổn như vậy, một trong những nguồn quan trọng
để Kitô hữu có thể cảm nghiệm và lãnh nhận niềm hy vọng một cách rõ ràng và
chân thực nhất là tình thương của Thiên Chúa. Tình thương này làm nảy sinh niềm
vui, làm cho tâm hồn chúng ta được mở ra để đón nhận niềm hy vọng về một cuộc sống
mới trong Thiên Chúa. Bài đọc thứ nhất hôm nay nhắc chúng ta rằng, như dân
Israel xưa, chúng ta cũng đang “bị quân
thù áp giải”, phải rời bỏ đền thánh Giêrusalem, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân
Ngài, “không xe không ngựa” (Barúc
5:6), “bị vua nước Babylon phát lưu” (Barúc
5:9) khắp tứ phương thiên hạ. Vào thế kỷ thứ hai trước Chúa Giáng Sinh, khi
ngôn sứ Barúc viết đoạn văn này, sự cám dỗ tuyệt vọng rất lớn: liệu một ngày
nào đó tất cả những lời hứa tốt đẹp của Thiên Chúa, vốn được các tiên tri của
Ngài lặp lại không mệt mỏi, có được ứng nghiệm không? Ngược lại, “Ngày của Thiên Chúa” theo cách nói nổi
tiếng của ngôn sứ Giêrêmia (3: 17-18), thời của Giao ước mới, thời của triều đại
Thiên Chúa, “Triều đại Ngài, đua nở hoa
công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn” (Tv 72:
7), dường như đang mỗi ngày mỗi xa hơn. Để tiếp thêm sinh lực cho những người
cùng thời, ngôn sứ Barúc sử dụng những lời tiên tri hy vọng lớn lao từ sách
Isaia. Đây là sự tuyên xưng niềm tin vào sự hữu hiệu và xác thực của những lời
hứa, bắt đầu bằng những lời hứa trở về quê hương: để thông báo rằng những người
Do Thái bị Nabucôđônôxo đày sang Babylon sẽ sớm được trả tự do, và sẽ lên đường
trở về. Sa mạc ngăn cách Giêrusalem với Babylon sẽ trở thành một con đường cao
tốc thực sự: “Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải
bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng
phiu, để Israel tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa Thiên Chúa”
(Barúc 5: 7). Theo lý thuyết thì trong sa mạc không có cỏ cây. Để loan báo sự
trở lại, như một phép lạ của Thiên Chúa, ngôn sứ Barúc nói: “Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại
quế trầm sẽ toả bóng che rợp Israel, vì Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan
lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của
Ngài” (Barúc 5:8-9). Về vinh quang tương lai của Giêrusalem, Barúc nhắc lại
cho những người đương thời với ông: “Hỡi
Giêrusalem, hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục, và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu
Thiên Chúa ban cho ngươi; hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên
Chúa; và đội lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng. Vì Thiên
Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của ngươi” (Barúc 5: 1-4).
Chúng ta chính là những người mang ánh hào quang của Thiên Chúa: “Hãy đứng ở nơi cao, và hướng nhìn về phía
đông: Kìa xem con cái ngươi từ đông sang tây tụ họp về theo lời Đấng Thánh đã
truyền dạy. Được Thiên Chúa nhớ đến, chúng hớn hở mừng vui. Xưa chúng bị quân
thù áp giải, phải rời ngươi, không xe không ngựa. Nay Thiên Chúa lại đưa chúng
trở về với ngươi, chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng”
(Barúc 5: 5-6).
Chúng ta phải dành thời gian để suy ngẫm về những lời nói đáng kinh ngạc
này nếu chúng ta thực sự muốn “khoác vào
mình áo choàng công chính của Thiên Chúa; và đội lên đầu triều thiên vinh quang
Đấng Vĩnh Hằng ban tặng” (Barúc 5:2). Rõ ràng, chúng ta có thể đặt câu hỏi:
nếu sách của ngôn sứ Barúc (538 trước Công nguyên) muộn hơn sách của Isaia rất
nhiều (742 trước Công nguyên), tại sao vị ngôn sứ lại tiếp tục tất cả những lời
hứa này? Cuộc lưu đày sang Babylon đã kết thúc từ lâu rồi, không còn lời hứa nào
cho những người bị lưu đày của thế kỷ thứ sáu nữa. Vậy thì vị ngôn sứ lấy những
lời của các nhà tiên tri trong quá khứ để phục vụ ai? Trên thực tế, những “người
lưu vong” mà vị ngôn sứ nói đến là những người Do Thái còn sinh sống trong những
cộng đồng Do Thái khắp thế giới Hy Lạp-La Mã, và những người này cảm thấy như
thể họ bị lưu đày khỏi Giêrusalem. Vị ngôn sứ biết rõ rằng, bất chấp những
thăng trầm của lịch sử, dự án của Thiên Chúa dành cho Giêrusalem và cho toàn thể
nhân loại sẽ được thực hiện. Do đó, giống như Isaia trong thời kỳ chán nản và u
ám trước đây, ngôn sứ Barúc công bố những lời hứa cứu độ của Thiên Chúa, rao giảng
niềm hy vọng vào “lòng từ bi và sự công
chính của Ngài” (Barúc 5:9). Đây là một bài học đẹp về đức tin và hy vọng
cho chúng ta: tất cả những bi kịch của thời đại chúng ta, bất kể là gì, không
được làm suy yếu sự tin tưởng và niềm hy vọng của chúng ta. Trái lại, cần phải
tăng cường niềm tin tưởng và hy vọng ấy nhiều hơn nữa.
2. Nhân chứng
của Hy vọng: Sống và Phục vụ cùng
Chúa.
Sự táo bạo của những người đang sống trong những thăng trầm của lịch sử
là tin tưởng rằng “Rồi hết mọi người phàm
sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3: 6). Và Thánh Luca đã không hiểu sai
điều đó. Khi nghe đoạn Tin Mừng hôm nay của ngài, chúng ta nhận thấy một kiểu đối
lập bất thường giữa một người đơn độc và những nhân vật nắm quyền lực: “Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế
Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương
miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít,
Lyxania làm tiểu vương miền Abilên, Khanan và Caipha làm thượng tế, có lời
Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa” (Lc
3:1-2). Qua Gioan Tẩy Giả, sự đối lập của “một
đoàn dân đang trông ngóng Đấng Cứu Thế - Mêsia” (Lc 3;15) với Đế chế của những
người nắm quyền lực trần gian đã bắt đầu. Điều không thể luôn là có thể. Điều
không thể tưởng tượng được nay có thể diễn ra khi lắng nghe Lời của Thiên Chúa,
một Lời đang đến, như ngôn sứ Isaia kêu gọi mà Thánh Luca trích dẫn: “Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho
thẳng để Ngài đi” (Lc 3: 4). Một điều gì đó sống động đang đến, đang cần được
bắc nhịp cầu. Bởi vì Gioan không ở đó để thực hiện và hoàn thành nhưng để chuẩn
bị cho điều đang đến. Gioan Tẩy Giả “liền
đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng
sám hối để được ơn tha tội” (Lc 3:3). Ông kêu gọi sám hối, làm nảy sinh những
hoa trái của sám hối, và đừng chần chờ nữa: “Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối. Và đừng vội nghĩ
bụng rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Abraham; vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên
Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham. Cái rìu đã đặt
sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”
(Lc 3: 8-9). Một Đấng Khác sẽ thực hiện và hoàn thành điều đang đến. Và chúng
ta, những người đang sống hơn 2000 năm sau, biết rằng chính Chúa Giêsu sẽ thực
hiện những gì Gioan Tẩy Giả đã chuẩn bị trước: “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc
quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng” (Lc 5:5). Chúa
Giêsu sẽ tiếp tục sứ vụ cứu độ của Ngài khi Gioan bị Hêrôđê bắt và bị giết. Chúa
Giêsu đã hoàn tất sứ vụ cứu độ của Ngài nơi chính con người của Ngài, nhưng vương
quyền cứu độ của Chúa Giêsu chưa trọn vẹn nơi lịch sử nhân loại và nơi lịch sử của mỗi
người chúng ta.
Giờ đây trong thế giới của những nhân vật nắm quyền lực như Trump, Putin,
và nhiều kiểu “vua chúa trần gian” khác... Chúa Giêsu đến nói chuyện với chúng
ta, ngay trong trái tim “hoang địa” của chúng ta, vốn quá bận bịu và quá dính
bén với thế giới mà họ thống trị, không còn bao nhiêu tin tưởng và hy vọng vào
Đấng đã đến và còn đang đến mỗi ngày. Chúng ta hiểu mọi núi đồi kiêu hãnh, tham
lam mà chúng ta đã lựa chọn khiến cuộc sống của chúng ta trở nên căng thẳng. Vì
thế “Mọi núi đồi, phải bạt cho thấp” (Lc
5:5): phải có một cuộc sống giản dị hơn, thức tỉnh hơn, ít tranh giành hơn, ít thể
hiện hay phô trương cái tôi hơn. “Mọi
thung lũng, phải lấp cho đầy” (Lc 3:5): phải lấp đầy sự thiếu sót trong tương
quan giữa những người láng giềng, giữa những gì chúng ta nói và những gì chúng
ta làm. Sự thiếu sót này đôi khi là một vực thẳm. Chúng ta cần xây dựng từng cộng
đoàn xã hội khác đi, đoàn kết hơn và biết quan tâm đến nhau nhiều hơn, huynh đệ
hơn và chân thật hơn. “Khúc quanh co, phải
uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng” (Lc 3:5): phải xây dựng một
cõi lòng không còn quanh co, gian trá, đầy mưu chước gập ghềnh, nhưng công bằng
hơn, ngay thẳng hơn. Đây là những điều chúng ta nghe thấy, nhưng bưng tai và bịt
mắt lương tâm, hoặc những điều đã bị dìm chết trong cõi lòng sâu thẳm của chúng
ta bởi sự thiếu đức tin, thiếu cách sống chứng nhân Tin Mừng cụ thể.
ĐứcThánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đã nói trước Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 1995: “Tôi đến trước mặt anh chị em như một chứng
nhân: một chứng nhân cho phẩm giá con người, một chứng nhân cho hy vọng, một chứng
nhân cho niềm tin rằng vận mệnh của mọi quốc gia nằm trong tay của một Đấng
Quan Phòng thương xót.” Đức Thánh Giáo Hoàng nói: “Bây giờ là thời điểm cho niềm hy vọng mới, kêu gọi chúng ta loại bỏ
gánh nặng tê liệt của chủ nghĩa hoài nghi khỏi tương lai chính trị và cuộc sống
con người… Chúng ta phải học cách không sợ hãi, chúng ta phải tìm lại tinh thần
hy vọng và tinh thần tin tưởng. Hy vọng không phải là sự lạc quan trống rỗng xuất
phát từ sự tin tưởng ngây thơ rằng tương lai nhất thiết sẽ tốt đẹp hơn quá khứ.
Hy vọng và tin tưởng là tiền đề của hoạt động có trách nhiệm và được nuôi dưỡng
trong lương tâm con người, nơi “con người ở một mình với Chúa” và do đó nhận ra
rằng mình không đơn độc giữa những nhiệm mầu của sự sống, vì con người được bao
quanh bởi tình yêu thương xót của Đấng Tạo hóa!”
Nếu Thiên Chúa đang hành động, nếu tình yêu của Ngài đang dần dần tạo
nên hình dạng “con người mới” thì thế giới không thể kết thúc trong thất bại,
hoang tàn hay bế tắc. Như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai, chúng ta tin
chắc rằng: “Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi
anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn
thành cho đến ngày Chúa Kitô Giêsu quang lâm” (Philípphê 1: 6).
Phêrô Phạm Văn Trung
Tác giả:
Phêrô Phạm Văn Trung
|