1. Cây nho và rượu nho vào thời Chúa Giêsu
Vào thời La Mã, cách trồng nho hầu như không có cải tiến gì đáng kể
so với các thời đại trước. Chắc chắn, kích thước của các máy ép đã tăng dần lên
kể từ thời hoàng tộc Israel, nhưng ở vùng đất Do Thái không có dấu vết nào của
các cơ sở nấu rượu quan trọng, tương tự như khu phức hợp Byzantine được phát hiện
tại Si'a ở miền nam Syria, hiện đã được khôi phục.
Cách sản xuất và phương thức bảo tồn rượu nho vẫn được giữ bí mật
như trong các thời đại trước. Bình đựng được cho là loại thường dùng để đựng rượu
nho là bình Amphora, có đế nhọn, dễ cắm chặt vào đất tơi xốp.
Tuy nhiên, các sách Tin Mừng nói về bầu da chứa rượu nho, chỉ rõ rằng
tuổi của da và tuổi của chất rượu phải tương ứng với nhau để khỏi bị nứt ra do
quá trình lên men “Người ta cũng không đổ
rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư.
Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai.” (Mt 9,17). Về
mùi vị thì khỏi nói, ai cũng thích rượu cũ vốn được ủ nhiều năm “Cũng không ai uống rượu cũ mà còn thèm rượu
mới. Vì người ta nói: "Rượu cũ ngon hơn.” (Lc 5,39).
Sở thích của những người Do Thái giàu có đối với rượu ngoại cũng
đã được khẳng định. Từ một vài thế kỷ trước, ngoài những loại rượu đã được mang
đến từ các quốc gia giáp phía đông Địa Trung Hải, rượu vang cũng được nhập khẩu từ Ý, và chắc
chắn được đánh giá cao vì nồng độ cồn cao hơn của chúng. Các bình đựng rượu vốn
mang dấu ấn của các nhà sản xuất, có tên gọi Latinh là Amphora, thực sự được tìm thấy ở Giêrusalem, trong một ngôi nhà từ
thời Hêrôđê.

Trong những gia đình bình dân, rượu dùng để uống trong những bữa
ăn mừng lễ, nhưng khách lữ hành có thể mang theo bên mình như người Samaritanô
trong dụ ngôn “Ông ta lại gần, lấy dầu lấy
rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng
lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc.” (Lc 10,34), vì rượu có nhiều
công dụng khác nhau. Nó có thể được sử dụng như một chất sát trùng - được đắp
lên vết thương - và được đánh giá cao về chất lượng bồi bổ của nó. Mọi người đều
biết lời khuyên khôn ngoan của Phaolô nói với người môn đệ Timôthê, dù không có tài liệu nào coi ngài là
người sành rượu: “Từ nay anh đừng chỉ uống
nước lã, nhưng hãy dùng thêm chút rượu, vì anh đau dạ dày và ốm yếu luôn” (1Tm
5,23). [1]
Vì tính chất gây sảng khoái của rượu nho nên nó cũng được khuyến
khích sử dụng để làm dịu cơn đau thể chất, như trường hợp người Samaritanô nhân
lành kể trên. Rượu trộn với mộc dược cũng được dâng cho Chúa Giêsu vào thời điểm
Ngài bị đóng đinh: “Chúng cho Ngài uống
rượu pha mật đắng, nhưng Ngài chỉ nếm một chút mà không chịu uống” (Mt 27:
34). Ngay cả Máccô khi nói rằng Chúa Giêsu dù bị kết án tử hình đóng đinh vào
thập giá nhưng Ngài từ chối dùng rượu trộn với mộc dược đó, ông muốn nhấn mạnh
một điều là Chúa Giêsu quyết tâm đối mặt với cái chết không mất đi một chút năng
lực nhận thức nào “Chúng trao rượu pha mộc
dược cho Ngài, nhưng Ngài không uống” (Mc 15,23). Sách Talmud ở Babylon cho
chúng ta biết rằng có những nhóm phụ nữ từ thiện ở Giêrusalem, đem rượu mạnh đến
cho những người bị kết án tử hình uống, “để
làm tâm trí của những người ấy nên xáo trộn và do đó giảm thiểu sự đau khổ của họ
vì nỗi sợ hãi về cái chết sắp xảy đến.” [2] Hay như trong sách Châm ngôn viết:
“Hãy đem chất men cho kẻ đang hấp hối, và
đem rượu cho người chịu đắng cay” (Châm ngôn 31: 6).’
2. Một dấu hiệu tinh tế thông báo một điều lớn lao
“Ngày thứ ba, có một Tiệc cưới
tại Cana miền Galilê” (Ga 2:1).
Ba từ đầu tiên của đoạn Kinh thánh ngắn gọn này - “Ngày thứ ba” -
chỉ được kể lại trong Tin Mừng của Gioan - tạo thành một trường hợp ám chỉ nổi
bật trong Kinh thánh. Trên thực tế, với một sự tinh tế bẩm sinh quen thuộc của
mình, Gioan lồng vào một dấu hiệu báo cho người đọc Kinh thánh biết: sắp sửa xảy
ra một điều gì đó.
Thành ngữ “ngày thứ ba” là một cụm từ rất đặc biệt. Các nhà chú giải
Kinh Thánh nói: trong truyền thống Cựu Ước, dấu chỉ thời gian này xác định ngày
Thiên Chúa tỏ mình ra trên núi Xinai: Xh 19,11 “Và đến ngày kia phải sẵn sàng, vì ngày kia Thiên Chúa sẽ ngự xuống trên
núi Xinai trước mắt toàn dân.”
Dấu hiệu thời gian nhỏ bé này lại là một thông báo về một théophanie - một cuộc thần hiện, một cuộc hiển linh
- nghĩa là sự hiện ra của Thiên Chúa, hay việc Thiên Chúa tỏ mình ra.
Trong truyền thống Tân Ước, công thức “Ngày
thứ ba” đề cập đến ngày Phục Sinh (1Co 15: 4; Mt 16: 21; 17:23; 20,19; Lc
9: 22; 18: 33; 24:7-46). Vì vậy, dấu chỉ Cana được trình bày như một sự kiện mặc
khải vinh quang của Chúa Giêsu Kitô, vinh quang chỉ thuộc về Thiên Chúa: “Chúa Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại
Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Ngài” (Ga 2,11).
Một điều đặc biệt xảy ra trong lễ cưới này, mà Chúa Giêsu, mẹ Ngài
và các môn đệ “mới tuyển” của Ngài được mời đến: phép lạ biến nước thành rượu.
3. Tại tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu biến nước thành rượu
Chuyện gì xảy ra tại tiệc cưới Cana? Thánh sử Gioan cho biết tầm
quan trọng của sự việc này như thế nào, trong phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu? Một tiệc cưới
kéo dài bao lâu vào thời điểm đó? Chúa Giêsu đã biến bao nhiêu lít nước thành
rượu?
Cần biết các phong tục cổ xưa để hiểu rõ hơn các văn bản Kinh
thánh. Trong văn hóa Do Thái và Hy-La cổ đại, đám cưới kéo dài một tuần. Do đó,
đây là một lễ mừng lớn quy tụ một số lượng lớn khách mời.
Do vậy, nhờ thông tin này, chúng ta hiểu rõ hơn về lượng nước ấn
tượng mà Chúa Giêsu đã biến thành rượu.
Ở đó có sáu chiếc bình bằng đá, dùng để thanh tẩy theo tục lệ người
Do Thái, và mỗi chiếc bình có dung tích bằng hai hoặc ba đơn vị đo lường. Vậy
rượu mới được bao nhiêu lít? Sau một vài chuyển đổi nho nhỏ về đơn vị, chúng ta
có phép tính:
Thuật ngữ metrêtês trong tiếng Hy Lạp
chỉ một “đơn vị đo lường dung tích”, tương ứng với 39,39 lít. Trong trường hợp
này, một bình có thể chứa từ 2 đến 3 đơn vị đo lường. Có 6 bình.
Kết quả tính được: số lượng tối thiểu thu được tương đương 472,68
lít trong khi số lượng tối đa tương đương 709,02 lít.
Đây cũng là một kỷ niệm nữa thêm vào những điều đáng nhớ dành riêng
cho cô dâu và chú rể làng Cana vào một khoảng thời gian đẹp nhất trong đời của
họ!
4. Khi Chúa Giêsu ngồi vào bàn ăn
Câu chuyện về một đám cưới, mà Chúa Giêsu đến với tư cách là khách
mời để chia sẻ bữa tiệc với cô dâu chú rể và các khách mời khác, gợi lên sự thánh
thiêng của lễ cưới này. Trong Tin Mừng, khi Chúa Giêsu ngồi vào bàn ăn, điều đó
thường khá quan trọng.
Khi ăn uống với những người tội lỗi và những người thu thuế, Chúa
Giêsu không lo lắng gì về danh tiếng của chính mình. Chúa Giêsu cho thấy rằng
Ngài mang ơn cứu độ và Tin mừng đến cho mọi người, đặc biệt là cho những người
tội lỗi và hoạn nạn “Thấy vậy, những người Pharisêu nói với các môn đệ Ngài rằng: “Sao Thầy
các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy? Nghe thấy thế, Chúa Giêsu
nói với họ: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi
không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9: 11; Mc 2,16; Lc 5,29 ).
Trong bữa ăn cuối cùng, “Bữa
Tiệc Ly”, sau khi rửa chân, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em
đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có
nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh
em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy,
để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Gioan 14: 1-3).
Lễ cưới và bữa tiệc Cana này là một biểu hiện khác của điều này “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Chia sẻ
bàn ăn có nghĩa là tham gia vào sự hiệp thông và tạo ra mối dây liên kết. Sự hiện
diện của Chúa Giêsu làm cho bữa tiệc này trở nên thánh thiêng, vì chính Ngài là
Đấng Thiên Chúa tuyển chọn, như Gioan Tẩy giả công bố trước khi tiệc cưới này
diễn ra không lâu: “Tôi đã thấy Thần Khí
tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Ngài. Tôi đã không biết Ngài. Nhưng
chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thần
Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh
Thần.” Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Ngài là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.”
(Gioan 1: 32 -34)
5. Hội Thánh nhìn sự kiện này như thế nào?
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 1613 viết:
“Khởi đầu đời sống công
khai, Chúa Kitô thực hiện dấu chỉ đầu tiên trong lễ cưới, theo lời yêu cầu của
Mẹ Maria (Ga 2,1-11). Hội Thánh coi việc Chúa Kitô hiện diện trong tiệc cưới
Cana có một tầm quan trọng đặc biệt. Hội Thánh nhìn sự kiện này như Lời Chúa
xác nhận hôn nhân là việc tốt lành và công bố hôn nhân từ đây là dấu chỉ hữu hiệu
về sự hiện diện của Chúa Kitô.”
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 1638 nhấn mạnh:
“Các đôi vợ chồng Kitô giáo
được những ơn riêng cho bậc sống của mình trong Dân Chúa" (LG 11). Ân sủng
đặc biệt của bí tích Hôn Phối kiện toàn tình yêu vợ chồng, củng cố sự hiệp nhất
bất khả phân ly của họ. Nhờ ân sủng này, “họ giúp nhau nên thánh trong đời sống
hôn nhân, trong việc đón nhận và
giáo dục con cái”(LG 11;LG 41).”
Bạn sẽ suy nghĩ về điều này khi quy tụ với bạn bè trong một bữa tiệc
lần tới chứ? Chúa Giêsu đến cư ngụ trong cuộc sống hàng ngày của kiếp người,
làm cho một tiệc cưới trở nên thánh thiêng. Ngài không chỉ làm cho lễ cưới của
những ai mời Ngài tham dự nên thánh thiêng, mà còn là cho cả cuộc sống hôn nhân
của họ thành một cuộc hành trình tràn đầy ơn thánh vì có Ngài đồng hành, có sự
hiện diện của Ngài giữ gìn ngọn lửa yêu thương thắm nồng như men rượu, vốn
không sớm thì muộn hoặc không nhiều thì ít, sẽ trở nên nhạt nhẽo, lạt vị, thậm
chí biến chất thành chua cay đắng đót. Chính Chúa Giêsu đã thiết lập một cách
thế để luôn luôn có thể biến nước lã thành rượu nho ngon lành: bí tích hôn
nhân.
6. Ý nghĩa của món quà
Có lẽ chúng ta nên suy nghĩ một chút về một ý tưởng tạm gọi là “minh
triết trong đời” gợi lên ý nghĩa của món quà. Ý tưởng này sẽ làm sáng tỏ ý
nghĩa của cử chỉ mà Chúa Giêsu thực hiện khi biến nước thành rượu.
Trao tặng một thứ gì đó không chỉ là di chuyển nó từ nơi này sang một
nơi khác, từ tay người này sang tay một người khác, như một sự chuyển giao sở hữu,
nhưng là để biến đổi món quà đó, kết hợp vào món quà đó một điều gì là chính con
người của người trao tặng. Quà tặng đích thực có giá trị không phải chỉ vì công
năng sử dụng của nó, cũng không phải chỉ vì giá trị trao đổi hàng hóa của nó –
cụ thể tính bằng tiền, như con người chúng ta thường có khuynh hướng thực dụng quy
đổi rất nhanh - mà còn là, và nhất là, vì toàn bộ sự hiện hữu của người trao tặng:
công sức lao động, sự quan tâm chia sẻ, tình yêu thương ân cần chăm sóc, ước
mong người thân yêu của mình được vui vẻ, yên lành, bình an và hạnh phúc.
Điều này thật đúng trong câu chuyện tiệc cưới Cana nơi Chúa Giêsu thực
hiện dấu lạ đầu tiên trong sứ mạng công khai của Ngài. Chúa Giêsu chắc chắn đã
mong ước và chúc tất cả những điều đó cho đôi vợ chồng mới thành hôn này! Nhưng
Chúa Giêsu không chỉ mong ước và cầu chúc bằng “môi miệng” như phần lớn phàm
nhân chúng ta. Lưu ý Gioan không nhắc đến một lời nào của Chúa Giêsu nói với
đôi vợ chồng mới. Sự hiện diện của Ngài tại tiệc cưới, dĩ nhiên theo lời mời của đôi vợ chồng
mới, của cha mẹ, của vị chủ hôn và của gia đình tổ chức lễ cưới cho họ, đã vượt
quá xa “niềm vinh hạnh cho gia đình chúng tôi”. Đây là điểm son của nhà đám
này, họ không chỉ mời “Thầy Giêsu” vốn bắt đầu danh tiếng, mà còn cả “thân mẫu
của Thầy”, thậm chí cả mấy ông môn đệ “chân ướt chân ráo” của Thầy mà có lẽ họ
đã biết, không nhiều thì ít, thành phần xuất thân của các ông: “Chúa Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham
dự” (Gioan 2:2). Có lẽ nhà đám không mong ước điều gì nơi sự hiện diện của
Thầy Giêsu và nhóm người của Ngài hơn là hai chữ “vinh hạnh”. Họ thực sự coi đó
là vinh hạnh, với tất cả tấm lòng chân thành. Cũng vậy, chắc chắn vị quản tiệc,
vốn được giao cho việc tổ chức cắt đặt mọi việc, biết rất rõ mình không hòng kiếm
chác được lợi lộc gì từ vị Thầy và các học trò của vị Thầy này ngoài sự vinh dự.
Chắc chắn ông quản tiệc này không thể hình dung ra một “sự cố tai
tiếng to lớn” sắp xẩy ra mà ông không hề dự tính hay dự cảm trong tâm trí mình.
Ngay cả khi mọi “xui rủi” đã được “xử lý thành công” lặng lẽ và êm thắm thì ông
cũng chỉ nhận ra một điều: đến giờ này mà rượu vẫn còn ngon quá! “Ông mới gọi tân lang lại, và nói: “Ai ai
cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn
anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ” (Gioan 2:9-10). Giả như trong
thời đại hiện nay, một người quản lý nhà hàng như thế, liệu có nên được tin cậy
nữa không, hay cần phải “sa thải” ngay lập tức, vì không dự toán được nhu cầu
thức uống đầy đủ cho thực khách, lại không nắm được diễn tiến của bữa tiệc mà
chủ nhà tin cậy giao cho mình lo lắng quán xuyến…đi đâu, làm gì mà không biết
gì hết vậy, hay là còn mải mê cụng ly với các “chiến hữu” !? “Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá
thành rượu, mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết”
(Gioan 2: 9).
Gabriel Marcel nói: “Món quà được trao tặng cho tôi, nếu thực sự
là một món quà, không chỉ thêm vào một tài sản đã có từ trước. Nó có một chiều
kích khác, bao la và sâu xa hơn nhiều, đó là dấu chứng tình yêu Thiên Chúa dành
cho tôi. Linh hồn của món quà là sự hào sảng, rộng lượng, quảng đại…là một ánh
sáng, thắp lên một niềm vui bùng vỡ hoan hỉ.” [3]
Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong bài huấn dụ buổi đọc Kinh Truyền
Tin trưa Chúa nhật 20.01.2019:
“Không phải tình cờ mà khởi
đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu lại được đặt trong bối cảnh của một lễ cưới,
bởi vì qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã kết hôn với nhân loại: đây là tin vui,
ngay cả khi những người mời Chúa chưa biết rằng Con Thiên Chúa đang ngồi cùng
bàn với họ và Ngài là chàng rể đích thực. Trên thực
tế, tất cả mầu nhiệm về phép lạ ở Cana nằm ở sự hiện diện của Chúa Giêsu, chàng
rể thần linh, Đấng bắt đầu tỏ mình ra. Chúa Giêsu tỏ mình ra như vị hôn phu của
dân Thiên Chúa, đã được các ngôn sứ loan báo và bày tỏ cho chúng ta sự sâu thẳm
của mối tương quan liên kết chúng ta với Ngài: đó là một Giao ước mới của tình
yêu.” [4]
7. Sự hiện diện của Mẹ Maria trong phép lạ đầu tiên của
Chúa Giêsu.
Mẹ Maria hiện diện trong cuộc đời công khai của Chúa Kitô như thế
nào? Mẹ phản ứng ra sao trước những gì Chúa Giêsu trả lời Mẹ trong đám cưới
Cana? Tại sao Chúa Giêsu không tự mình làm phép lạ?
Trong phép lạ đầu tiên của cuộc đời công khai của Chúa Kitô, có Mẹ
Maria, Mẹ của Ngài. Khi xem xét kỹ hơn, đây là một tham số quan trọng. Bởi vì điều
đó không thường xuyên xuất hiện trong các trình thuật Tin Mừng.
Đây là một tình tiết đáng chú ý về nhiều mặt: trong bốn sách Tin Mừng,
Mẹ Maria được cả Mátthêu, Luca và Gioan trích dẫn. Nhưng Mátthêu và Luca chỉ
cho Mẹ xuất hiện trong các câu chuyện về sự ra đời và thời thơ ấu của Chúa Giêsu.
Mẹ lu mờ dần trong suốt cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Do đó, thật thú vị
khi nhấn mạnh rằng trong đoạn văn này, Gioan là người duy nhất nói đến sự hiện
diện của Mẹ Maria vào lúc khởi đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.
Trong sách Tin Mừng của Gioan, Mẹ Maria xuất hiện vào hai thời điểm:
tại đám cưới Cana này, nơi Mẹ được mời cùng với Chúa Giêsu và các môn đệ của
Ngài, và trong cuộc Khổ nạn, dưới chân Thập giá “Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, có thân mẫu Ngài” (Ga 19,25).
Đây không phải là yếu tố duy nhất làm cho trình thuật này trở nên
độc đáo. Gioan là người duy nhất lên tiếng về cuộc hôn nhân này. Không có sách
Tin Mừng nào khác đề cập đến phép lạ tại Cana. Mặt khác, Tin Mừng Gioan không kể
về Bữa Tiệc Ly là bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ. Do đó, nhiều
nhà chú giải đã coi bữa tiệc cưới này, nơi rượu được chia sẻ giữa các khách mời
với nhau, là hình ảnh tiên trưng cho Bữa Tiệc Ly.
8. Đôi mắt tinh tường của Mẹ Maria
Họ không còn rượu, vì rượu dùng cho tiệc cưới đã cạn. Một tiệc cưới
kéo dài bảy ngày, mà ngày nào cũng có khách đến chung vui, cho nên rượu là thứ
không thể thiếu. Thế mà hết rượu! Gioan không tìm hiểu lý do, không có một lời
nào đổ lỗi cho đôi vợ chồng mới, cho cha mẹ của chú rể hay của cô dâu, thậm chí
cũng không nói gì đến sự thiếu trách nhiệm của người quản tiệc. Người ta có thể
phỏng đoán một cách hợp lý rằng: vào ngày hôm đó, khách khứa đến nhiều hơn mong
đợi và vượt quá dự tính! Sứ điệp trọng tâm của Gioan hoàn toàn không liên quan
gì đến mấy chuyện “rượu chè” đó. Gioan chỉ trình thuật: “Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Chúa Giêsu nói với Ngài:“Họ hết rượu rồi.”
(Gioan 2: 3-5). Chính Mẹ Maria nhận thấy sự thiếu sót và thông báo điều đó cho
con trai mình.
Chúa Giêsu đáp: “Thưa bà,
chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” Một câu trả lời có vẻ
như của “kẻ xa lạ” cho một người không quen, như kiểu muốn nói “bà và tôi có liên
can gì với nhau đâu cơ chứ?”, lại càng không thể là câu trả lời của Người Con
mình “rứt ruột đẻ ra”!
Sứ điệp của Gioan ở đây cũng không phải là chuyện cư xử lịch thiệp,
lễ phép theo qui tắc giao tế xã hội. Chuyện lớn lao hơn nhiều! “Giờ của tôi chưa đến!” Ai ngạc nhiên chứ
Mẹ Maria thì không, vì Mẹ đã từng trách nhẹ Người Con ấy: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ
đây đã phải cực lòng tìm con!” và Mẹ đã nghe Người Con của mình hỏi ngược lại
mình “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ
không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” và Mẹ “không hiểu lời Ngài vừa nói” (Luca
2:49-50). Chuyện đã xẩy ra gần hai mươi năm trước rồi, mà Mẹ, một người phụ nữ
tinh tế bén nhạy, lại là một người Mẹ, làm sao quên được Lời của Chúa Giêsu, “Riêng mẹ Ngài thì hằng ghi nhớ tất cả những
điều ấy trong lòng” (Luca 2: 51). Và ta có lẽ được phép suy đoán cách hợp
lý rằng trong suốt những năm tháng sống lặng lẽ cùng một Giêsu tại làng quê
Nadarét, chứng kiến “Chúa Giêsu ngày càng
thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta”
(Luca 2: 51-52), hẳn Mẹ đã nhận ra ngày càng rõ ràng rằng Lời Thiên Chúa, qua lời
thiên sứ, đang dần được thực hiện: “Ngài
sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài
ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Ngài. Ngài sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và
triều đại của Ngài sẽ vô cùng vô tận… Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con
Thiên Chúa” (Luca 1: 32-33, 35). Nếu không có những cảm nghiệm “thực tế sát
sườn” như thế hẳn Mẹ đã không lẳng lặng lắng nghe và ứng xử như không có gì bất
ngờ đang diễn ra. Mẹ Maria, một lần nữa trong muôn ngàn lần, sống mãi lời xin “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ
làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Luca 1: 38), vì Mẹ tin và cảm nghiệm rõ ràng
rằng “Đối với Thiên Chúa, không có gì là
không thể làm được” (Luca 1: 37). Mẹ không còn “bối rối” như trong cuộc truyền tin khi xưa: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào…” (Luca 1: 29, 34). Cho nên Mẹ không thắc
mắc hỏi han gì thêm nữa.
9. Gioan, người suy
ngẫm kỹ lưỡng cặn kẽ và làm chứng
Có lẽ cũng nên lưu ý rằng chính Gioan viết trình thuật này vì ngài
là một trong sáu đồ đệ mới tinh của Rabbi Giêsu (Gioan 1: 35-51) được mời dự tiệc
cưới theo Thầy mình. Gioan chứng kiến, quan sát theo kiểu “tai nghe mắt thấy,
người thật việc thật” tất cả những gì diễn ra. Gioan lưu giữ tất cả những lời
nói, việc làm của Thầy của mình và của Người Mẹ của Thầy nơi tiệc cưới này. Chắc
chắn trong những năm tháng sau khi Chúa Giêsu về trời, Gioan, người mà Chúa Giêsu
đã trối Mẹ Maria lại cho Ông: “Đây là mẹ
của anh” và là người “Kể từ giờ đó,…
rước bà về nhà mình” (Gioan 19: 28), đã được Mẹ Maria kể lại biết bao sự việc
mà chỉ mình Mẹ biết về Người Con Giêsu Thần linh của Mẹ, cũng như chia sẻ rất
nhiều cảm nhận và kinh nghiệm Mẹ đã có được trong hành trình Tin Cậy Mến mà Mẹ cùng
đi với Người Con ấy. Trong cuộc hành trình đó tiệc cưới Cana là một chặng đường
đáng ghi nhớ, nhờ đó Gioan nhận ra sứ điệp của Chúa Giêsu, qua trải nghiệm của
Mẹ Maria, và của chính mình để “làm chứng
về những điều đó và đã viết ra” (Gioan 21: 24).
Cũng chắc chắn sau này, khi Gioan nghe Maria Mácđala kể lại việc
bà đã thấy Thầy khi “Bà đứng ở ngoài, gần
bên mộ, mà khóc” thì “Đức Giêsu gọi bà:
"Maria! " Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: "Rápbuni! "
(nghĩa là "Lạy Thầy") … rồi “bà đi
báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Chúa", và bà kể lại những điều Ngài
đã nói với bà” (Gioan 20: 11-18) và nhất là sau khi tận mắt chứng kiến những
lần hiện ra của Thầy mình trỗi dậy từ cõi chết “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa
đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và
nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn.
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa…” (Gioan 20:19-29). Gioan hẳn vẫn nhớ
tiệc cưới này và suy nghĩ về ý nghĩa của tất cả các sự kiện ấy. Từ buổi đầu gặp
gỡ Rábbi Giêsu, tiệc cưới Cana, tẩy uế Đền Thờ…cho đến kết luận “Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu
viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa
các sách viết ra” (Gioan 21: 25), tất cả đều đã được Gioan suy ngẫm kỹ lưỡng
cặn kẽ và “Chính môn đệ này làm chứng về
những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác
thực” (Gioan 21: 24).
Thực ra không phải nhờ đến những lần tận mắt chứng kiến việc Chúa
Giêsu phục sinh thì Gioan mới hiểu ra “điều lớn lao” mà Thầy Giêsu đã báo trước
cho các môn đệ của mình ngay từ buổi đầu gặp gỡ: “Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa…Thật, tôi bảo thật
các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên
xuống xuống trên Con Người.” (Gioan 1: 50). Gioan luôn đi trước và hiểu ra
trước các đồng môn, kể cả niên trưởng Phêrô, những lời nói và hành động của Thầy
mình: “Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra
mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ
trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông
Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải
để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải,
nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ
trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu
rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Gioan 20:
3-9). Điều lớn lao này, phép lạ vô cùng vĩ đại này, không chỉ làm cho nước
thành rượu, mà làm cho chết thành sống, làm cho sự chết, vốn hư vô hóa mọi sự vô
thường, trở nên sự sống có quyền năng ban tặng cho mọi sự đang suy tàn một sức
sống mới và được vĩnh cửu hóa, bởi lòng thương xót cứu độ của Đấng đã nói trong
tiệc cưới Cana vui vẻ chóng qua: “Giờ của
tôi chưa đến” thì nay công bố: “Lạy
Cha, giờ đã đến!” (Gioan 17:1).
Giờ gì? Giờ của Thiên Chúa ban sự sống đời đời, giờ “Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho
Ngài quyền trên mọi phàm nhân là để Ngài ban sự sống đời đời cho tất cả những
ai Cha đã ban cho Ngài. Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa
duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô”
(Gioan 17: 1-3).
10. Mẹ Maria, người vâng lời, người xin vâng phục
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của
Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là lời mà Mẹ Maria thưa
với sứ thần của Thiên Chúa, tức là thưa với Thiên Chúa. Và đó cũng là lời Mẹ
Maria nói với những gia nhân trong tiệc cưới Cana, cũng là trong cuộc đời hôm
nay của mỗi chúng ta: “Ngài bảo gì, các
anh cứ việc làm theo” (Gioan 2: 5). Lời này minh chứng cho sự tin tưởng vô
điều kiện mà Mẹ Maria đặt vào Chúa Giêsu, là người có vẻ như vừa từ chối Mẹ! Mẹ
đã có kinh nghiệm và biết rất rõ sự vâng phục Thiên Chúa sẽ đưa đến những hoa
trái gì. Do đó, Mẹ Maria là người đầu tiên làm được những gì đã được nói với Mẹ:
đây là lý do tại sao Mẹ có thể chuyển giao lời này cho người khác. Trong tiệc
cưới “xui xẻo bất chợt” này, Mẹ Maria là người đầu tiên “mở lời” và do đó trở
thành người đầu tiên “mở lối”.
Trong cuộc đời có lẽ cũng đầy bất trắc của mỗi chúng ta, có sự hiện
diện hoặc có chút bóng dáng gì của “Người
Mẹ rất nhân từ” này không? [5]
11. Chúa Giêsu không muốn làm tất cả một mình
“Chúa Giêsu bảo họ:“Các anh
đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Ngài nói với họ: “Bây giờ
các anh múc và đem cho ông quản tiệc.”

Từng mệnh lệnh trong hai mệnh lệnh do Chúa Giêsu công bố đều được
thực hiện ngay lập tức. Điều này cho thấy chính Chúa Giêsu làm chủ mọi sự, đó
là căn tính của Ngài: Thiên Chúa sáng tạo. Nhưng điều đặc biệt đáng chú ý là
Chúa Giêsu liên kết các người đầy tớ với phép lạ của Ngài.
Cách thức hoạt động này cho thấy ý muốn của Thiên Chúa liên quan đến
con người: qua Mẹ Maria, qua lời Chúa Kitô kêu gọi các gia nhân cộng tác với
Ngài để làm nên phép lạ này. Một vài bức tranh như bức tranh của Carl Bloch bên
cạnh đây, cho thấy những người hầu ở phía trước trong khi Chúa Giêsu gần như bị
ẩn ở phía sau.
Carl
Heinrich Bloch (1834-1890), The Wedding at Cana, (1870, sơn dầu trên vải bạt).
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tại Lâu đài Frederiksborg, Hillerød, Đan Mạch. Phạm
vi công cộng.
Tôi có muốn cộng tác với Chúa Kitô để làm nên “phép lạ lớn lao nhất”
của Ngài không: cứu độ con người vốn đã sa ngã trong tội, vì: “Mọi người đã phạm tội” (Rm 5,12) và thực
hiện công cuộc sáng tạo trời mới đất mới, dù chỉ trong “chức vụ tôi tớ”? “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển
cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi
Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. Rồi tôi
nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại,
Ngài sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của
Ngài, còn chính Ngài sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ” (Khải huyền 21: 1-3).
Chúng ta hãy lấy lại những lời thơ tuyệt vời của Jean-Pierre
Lemaire, vang vọng cảm xúc chân chất và sâu sắc của những gia nhân trong tiệc
cưới Cana, với mong ước rằng tất cả chúng ta cũng cảm thấy vinh dự như họ, khi được
tham gia một cách bí nhiệm vào phép lạ này:
“Chúng tôi rót rượu vào chén
một lần nữa
và
mọi người hạnh phúc, đôi vợ chồng thanh thản bình an,
không
có bóng tối trên khuôn mặt. Chúng tôi không uống rượu
nhưng
chúng tôi biết nó đến từ những chiếc chum đá
nơi
nước đã chuyển màu sắc và hương vị.
Cậu
chủ và mẹ cậu ở cuối bàn
biết
điều đó rõ hơn chúng tôi. Nhìn họ cười,
chúng
tôi đoán ra dòng chảy bí nhiệm của dòng sông,
đang
rót tràn chén bằng thứ rượu, từ thứ nho giấu kín,
và
chúng tôi nhấm nháp sự tiếp tay này
vốn
là phần việc của chúng tôi, là phần tốt nhất.” [6]
Phêrô
Phạm Văn Trung.
Chú thích:
[1] Michel Quesnel, Văn bản này được trích từ cuốn sách kỹ thuật số
Découvrir autrement… La vie quotidienne
au temps de Jésus - Khám phá khác ...
Cuộc sống hàng ngày vào thời Chúa Giêsu, được viết bởi Michel Quesnel, học
giả Tân Ước và được Le
Monde de la Bible xuất bản. Gần bốn mươi vật phẩm trình bày các công cụ và cách
sử dụng của chúng trong cuộc sống thường nhật ở Galilê và Giuđêa vào thế kỷ thứ
nhất sẽ được khám phá trong công trình này.
https://www.mondedelabible.com/le-saviez-vous%E2%80%89/
[2] Sanhedrin, 43a: “And furthermore, another question is raised
along similar lines: With regard to that which Rav Ḥiyya bar Ashi says that Rav Ḥisda says: The court gives one who is being led out to be killed
a grain [koret] of frankincense in a cup of wine in order to confuse his
mind and thereby minimize his suffering from the fear of his
impending death, as it is stated: “Give strong drink to him that is ready to perish,
and wine to the bitter in soul” (Proverbs 31:6). And it is taught in a
baraita: The
prominent women of Jerusalem would donate this drink and bring it to those being led out to be killed. The
question is: If
these prominent women did not donate this
drink, from
whom is it taken? The Gemara
answers: With regard to this question, it is certainly reasonable that
this drink should be taken from the community, as it is written: “Give [tenu] strong drink,” in
the plural, indicating that it should come from them, the community.”
https://www.sefaria.org/Sanhedrin.43a.10?lang=bi
[3] Phỏng theo ý của Gabriel Marcel, http://pascalide.fr/en/le-don-de-soi-selon-gabriel-marcel/ “Quà tặng của tôi thực sự là một cách thông truyền với người khác
…Món quà được tặng cho tôi, nếu thực sự là một món quà, không chỉ được thêm vào
một tài sản đã có sẵn, theo nghĩa là tôi có thể nói: Tôi còn một thứ nữa, một
cuốn sách nữa, v.v.. Món quà đồng thời cũng được đặt ở một chiều kích khác, đó
là chiều kích dấu chứng, vì đó là lời cam kết của tình bạn hoặc của tình yêu”
https://pascalide.fr/en/le-temoignage-selon-gabriel-marcel/, số 27.
[4] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2019-01/dgh-phanxico-thien-chua-ket-hon-voi-nhan-loai-qua-chua-giesu.html
[5] “Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy
đến cùng Ðức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp mà Ðức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời.…”
(Kinh Hãy Nhớ)
[6] Les servants de Cana
- Những người hầu trong tiệc cưới Cana, Jean-Pierre
Lemaire, Faire place, Gallimard, 2013; https://poeme.a-lire.fr/2013/07/les-servants-de-cana-jean-pierre-lemaire.html