LỜI CHÚA VÀ CUỘC SỐNG
Lm. Jos. Đồng Đăng
William Barclay, một học giả Kinh Thánh nổi
tiếng đã nói: “Chỉ có một cách duy nhất để mang lại bình an cho trái tim, niềm
vui cho tâm trí và vẻ đẹp cho cuộc sống; đó là đón nhận thánh ý của Thiên
Chúa.” Muốn thi hành ý Chúa thì cần phải lắng
nghe và thực hành Lời Người dạy. Trong Tin mừng theo Thánh Mathêu, Đức Giêsu
nói: “ai nghe những lời Thầy nói đây
mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa,
nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá.
Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như
người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà
ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7,24-27). Như vậy, giữa Lời Chúa và cuộc sống
có mối liên hệ thiết thực với nhau, và được thể hiện cụ thể như sau.
Trước
hết, Lời Chúa là động lực thúc đẩy cuộc sống. Thực vậy, khi chúng ta năng suy
niệm Lời Chúa và để cho Chúa Thánh Thần làm Thầy dạy của mình,
lúc đó chúng ta sẽ khám phá ra rằng Lời Chúa thực sự là sức mạnh
nung náu tâm hồn chúng ta, biến đổi chúng ta và giúp chúng ta vượt qua những
khó khăn trong cuộc sống. Từng Lời dạy của Chúa trong Kinh Thánh Cựu
Ước cũng như Tân Ước luôn cho thấy Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là
Thiên Chúa cứu độ. Mọi hành động của Ngài đều nhằm mục đích sửa
dạy, dẫn dụ, và nâng đỡ con người trước mọi cảnh huống của cuộc
sống. Nếu chúng ta thực sự kết hợp với Lời Chúa thì Lời ấy chắc
chắn sẽ giúp chúng ta đọc được mọi biến cố buồn vui trong cuộc đời bằng
ánh mắt của Chúa. Nếu ai trong chúng ta cảm thấy phải lao đao vất vả
vì phải gồng gánh nặng nề: gánh nặng của bản thân và gia đình; gánh
nặng của những người cha, người mẹ phải đầu tắt mặt tối nơi chợ
búa; phải một nắng hai sương trên nương đồng, hay ngày ngày phải lặn
lội trên sông trên nước để có cái tôm cái tép đổi lấy đồng tiền nuôi
con ăn học, gánh nặng của những cô cậu học trò phải miệt mài đèn
sách nhưng rốt cuộc, tương lai sự nghiệp vẫn mờ mịt... đã có những lúc
chúng ta phải thở vắn than dài, thì chính lúc đó đã có Lời Chúa an
ủi vỗ về: “Tất
cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ
ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 28).
Cũng vây,
khi gặp phải những đau khổ về thể lý cũng như tinh thần như ốm đau bệnh tật,
bị hiểu lầm hay bị khinh khi nhục mạ, lúc ấy chúng ta cũng kêu than như
lời Thánh vịnh gia: “Thân con bị muôn phần khổ nhục” (Tv 119, 107).
Nhưng, cùng với Thánh vịnh gia, chúng ta đừng quên nói thêm câu sau:
“Lạy Chúa, theo lời Ngài, xin cho con được sống ... Mạng sống này luôn
lâm vòng nguy hiểm, song luật Ngài, con vẫn không quên” (Tv 119, 107). Sự
hiện diện đầy tình thương của Chúa, qua Lời Ngài, là ngọn đèn xua
tan những bóng đêm của nghi ngại, của sợ hãi và thúc đẩy chúng ta, soi
sáng hướng dẫn chúng ta, nhất là trong những tình cảnh rối ren nhất của
cuộc đời.
Thứ hai, Lời
Chúa được cụ thể hoá bằng đời sống chứng tá hằng ngày của người
Kitô hữu.
Thánh Giacôbê đã cảnh tỉnh như sau: “Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ
đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không
thực hành, thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình.
Người ấy soi gương rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào. Ai thiết
tha và trung thành tuân giữ luật trọn hảo, luật mang lại tự do, ai thi hành
luật Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc
mình làm” (Gc 1,22-25). Ai lắng nghe Lời Chúa và liên lỉ quy chiếu về Lời Ngài,
thì người ấy như người xây dựng cuộc sống mình trên nền tảng vững chắc. Người
ấy sẽ không bị chao đảo trước mọi giông tố của cuộc đời.
Nghe và thực hành Lời Chúa là hai việc
không thể tách rời nhau. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước cho ta thấy
mối tương quan khăng khít giữa lời nói và hành động của Ngài suốt
lịch sử cứu độ. Thiên Chúa mạc khải chính mình trong lịch sử; Ngài nói
chuyện với con người và Lời Ngài đầy sức mạnh sáng tạo. Thật vậy, quan niệm Do thái
về từ “Dabar”, thường được chuyển dịch ra bằng từ “Lời”, là từ có hai nghĩa
vừa là “Lời Nói” vừa là “Hành Ðộng”. Thiên Chúa nói điều Ngài làm và làm điều
Ngài nói. Cũng vậy, trong cuộc sống, người Kitô hữu được mời gọi sống
những gì mình hấp thụ qua Lời của Chúa. Việc thực thi Lời Chúa
chính là thực hiện các huấn lệnh của Ngài là Mười Điều Răn và biết
rập đời mình theo Tám Mối Phúc Thật. Và điều quan trọng nhất mà mỗi Kitô
hữu phải làm đó là thực thi luật bác ái yêu thương. Thánh Gioan Tông Đồ
đã viết những lời thật sâu sắc: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà
lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh
em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy”
(1Ga 4, 20).
Yêu thương tha nhân là dấu chứng rõ
ràng nhất để muôn dân nhận biết chúng ta đích thực là môn đệ Chúa Kitô.
Chúng ta đã từng nghe tới tấm gương kiên trung của Đức
Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, một “mục tử nhân lành” của Giáo hội
Việt Nam. Trong mười luật sống của ngài, chúng ta đọc thấy luật thứ 9 rằng: “Tôi
chỉ nói một thứ ngôn ngữ duy nhất và mặc một thứ trang phục: Bác ái”. Ngài kể
rằng: Tôi bị bắt giam trong một thời gian dài suốt 13 năm. Có hai tên cận vệ
canh chừng tôi nhưng chẳng bao giờ nói với tôi một lời, chỉ “ có” và “không”.
Nhưng cuối cùng, họ trở thành anh em của tôi, chẳng phải vì tôi cho họ cái gì
trị giá bằng vật chất, nhưng tôi đã cho họ tình yêu của Đức Kitô. Tôi đã cười
với họ, đã dạy ngoại ngữ cho họ, đã coi họ là bạn tôi, là anh em tôi. Có tên
lính còn hỏi: “Nếu như anh được phóng thích, anh sẽ không nhờ người
tìm đến và hành hạ gia đình chúng tôi chứ?”
Đức Giám
mục trả lời: “Tôi vẫn tiếp tục yêu các cậu cả khi các cậu muốn
giết tôi”.
“Nhưng vì
sao”? “Bởi vì Chúa Giêsu dạy chúng ta phải luôn yêu
thương nhau; nếu chúng ta không làm vậy, chúng ta không còn là những Kitô
hữu chính danh”. Như vậy, lời Chúa đã trở thành cuộc sống nơi vị
chứng nhân anh dũng này. Cả chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng sẽ là
chứng nhân cho Lời Chúa, sẽ là môn đệ của Ngài nếu chúng ta yêu thương
mọi người.
Thứ
ba, Lời Chúa dẫn ta đến cuộc sống đích thật. Chúa Giêsu đã chỉ cho ta biết con
đường chân chính để được làm môn đệ của Ngài và được hưởng hạnh
phúc: “Nếu các con ở lại trong Lời của Thầy, các con thật là môn đệ Thầy; các
con sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các con” (Ga 8, 31-32). Quả
thực, không dễ dàng để nhận biết và gặp được hạnh phúc đích thật
trong thế giới chúng ta đang sống, trong đó con người thường có nguy cơ
trở nên con tin của những dòng tư tưởng, những chủ nghĩa dẫn đưa
chúng ta đến sự hư mất trong những sai lầm hoặc ảo tưởng như tiền
tài, danh vọng, địa vị và mọi hào nhoáng của thế gian. Vậy, nếu
chúng ta muốn được giải thoát, nếu chúng ta muốn vươn tới cuộc sống
hạnh phúc đích thật thì không còn con đường nào khác là ở lại trong
Lời của Ngài. Hãy làm cho Lời đó được sinh sôi nảy nở trong cuộc
sống hằng ngày. “Hãy bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng
là Đức Kitô Giêsu” (Cl 2,7) vì chính Ngài là Ngôi Lời nhập thể, Lời Sự
Thật, nhờ Người chúng ta được tự do và hướng dẫn sự tự do chúng ta đến điều
thiện hảo. Chính Chúa Giêsu đã nói “Ta là đường là sự thật và là sự
sống (Ga 14, 6). Nếu chúng ta ở trong Lời Người, là môn đệ đích thực
của Người, chắc chắn chúng ta sẽ
biết đường đến hạnh phúc đích thực.
Kết
luận: Trên
đây là phần trình bày về mối tương quan thiết thân giữ Lời Chúa và
cuộc sống. Hai thực thể này luôn cần phải tồn tại song hành với nhau
trong đời sống của mỗi Kitô hữu. Ta Không thể sống duy Lời Chúa mà
không thể hiện nó qua cuộc sống hằng ngày và ngược lại, ta sẽ không
thể sống viên mãn nếu không có ánh sáng của Lời soi dẫn, lời đó dẫn ta
tới chính Ngôi Lời là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta. Chính thánh
Giêrônimô đã khẳng định: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô” (x.
Dei Verbum, số 25). Ước gì mỗi chúng ta luôn biết làm cho mình trở nên
quen thuộc với Kinh Thánh, biết đặt Kinh Thánh trong tầm tay, ngõ hầu
Kinh Thánh trở nên chiếc ‘la bàn’ chỉ cho chúng ta biết con đường phải
đi theo, nhờ đó chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc đích thực.
Tác giả:
Lm. Jos Đồng Đăng
|