NIỀM VUI CÓ CHÚA PHỤC SINH
(Suy niệm Tin mừng theo Thánh
Luca (24,13-35) trong Chúa nhật III Phục
sinh)
Dẫn
nhập: Chuyện kể rằng, đêm nọ, người kia có
một giấc mơ lạ. Anh thấy mình đang đi trên bãi biển với Chúa. Những lúc vui,
trời yên biển lặng, anh thấy có hai đôi chân in trên cát, một của Chúa và một
của anh. Nhưng lúc bão tố nổi lên, sóng xô vào bờ cát. Mệt. Mỏi. Đuối. Anh anh
gắng gượng bước đi, miệng lẩm bẩm than trách Chúa rằng: “Lạy Chúa, tại sao những lúc khó khăn, thất bại, Chúa lại bỏ
con?” Chúa trả lời: “con ơi, khoan vội trách Cha nhưng hãy nhìn cho
kỹ dấu chân in trên cát là của ai?” Anh nhìn kỹ và nhận ra đó là dấu đôi bàn
chân của Chúa. Thì ra, lúc gặp hoạn nạn, Chúa đã cõng anh trên vai.
Trong lúc gặp thử thách gian truân,
dù là ốm đau, bệnh tật, mất mùa, giặc giã, chiến tranh, loạn lạc, hận thù, ghen
ghét, huynh đệ tương tàn, v.v, Thiên Chúa vẫn luôn ở cùng chúng ta và bênh đỡ
chúng ta. Dù ta một mực phản bội, Chúa vẫn một mực xót thương; dù ta thoái lui,
nản chí, Chúa vẫn chờ đợi chúng ta. Dù ta trở thành kẻ ăn chơi đàng điếm, ngoại
tình trong tư tưởng, Chúa vẫn rộng lòng thương xót thứ tha. Có những lúc ta
trốn chạy cuộc đời, có nhiều khi ta muốn đánh bật Chúa ra khỏi cuộc sống của ta
nhưng cũng chính lúc đó ta mới thấy, ta cần Chúa dường nào. Ta không thể nào
cất cánh bay khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa, và rồi, có khi ta cũng thốt lên như
lời Thánh Augustinô: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng
nên chúng con cho Chúa, vì thế tâm hồn chúng con sẽ không được ngơi nghỉ cho tới
khi nó tìm được sự nghỉ ngơi nơi Ngài”.
Bài Tin mừng Đức Giêsu Kitô theo
Thánh Luca mà chúng ta được nghe trong Chúa Nhật III Phục Sinh thuật lại hành
trình về Emmau của hai môn đệ và có Chúa Kitô Phục Sinh đồng hành. Lòng hai môn
đệ chất chứa tâm trạng và sự hiện diện của Chúa Phục Sinh đã làm cho nỗi buồn
của họ thành niềm vui hân hoan.
1.
Nỗi buồn vì mất Chúa: Trước
cái chết tức tưởi của Đức Giêsu trên thập giá như một tên tử tội, các môn đệ
kinh hồn bạt vía và đóng kín cửa nhà, lòng bồn chồn lo lắng không biết số phận
mình sẽ như thế nào đây. Các ông không ngờ rằng, Đức Giêsu - vị Thầy khả kính
của họ, Đấng vốn có uy thế trong lời nói và việc làm, đã cho người chết sống
lại, đã chữa lành các bệnh nhân, cho kẻ mù được thấy, kẻ què chạy nhảy như hươu
nai, Đấng đã có thể dẹp yên sóng gió ba đào, - vậy mà giờ đây lại có một kết
cục thê thảm là bị treo trên thập giá nhục nhã ê chề. Họ lại càng sợ hãi hơn
nữa là vì có người loan tin rằng, xác Chúa đã mất. Chúa có sống lại không thì
các ông chưa biết nhưng nhà cầm quyền Do Thái đã phao tin các môn đệ đã lấy cắp
xác Chúa khi lính canh đang ngủ. Vì sợ bị liên lụy nên các ông đành “đánh bài
chuồn”, an phận thủ thường.
Cụ thể trong bài Tin mừng hôm nay, hai
môn đệ, một người tên là Clêôpát, một người nữa không được gọi tên. Hai ông đã
bỏ kinh thành Giêrusalem để về quê Emmau mà lòng vẫn chưa hết bàng hoàng, vừa
đi vừa bàn tán với nhau về chuyện liên quan đến Thầy của mình. Và Đức Giêsu đã
đồng hành với họ trên đường đi, cùng chuyện trò với họ nhưng họ không nhận ra Người.
Chúa vào đề một cách tự nhiên, Người hỏi: “các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau
về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu và nói: “Chắc ông là người duy
nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong
thành mấy bữa nay.” Các ông tưởng rằng mình là những người trong cuộc, biết tường
tận mọi việc liên quan đến ông Giêsu từ đầu đến cuối, nhưng kỳ thực các ông
chẳng biết gì cả. Dù thấy đường về quê, nhưng cặp mắt đức tin các ông đã ra mù
lòa. Cũng như các môn đệ khác, hai ông thất vọng vì vỡ mộng, bởi lẽ Vị Sư Phụ
của mình đã chết, đã thất bại nhục nhã trước mắt người đời. Cuộc
hành trình của họ là một cuộc hành trình trở về. Họ đành bỏ lại đằng sau cảm
nghiệm đau đớn về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Thập giá mà Đức Giêsu gánh chịu
đối với họ là cái gì đó thực sự tệ hại, thực sự điên rồ (x. 1cr 1,18; 2,2). Cái
chết của Người dường như chôn vùi mọi thứ hy vọng nơi họ. Trước mắt họ chỉ là vực
sâu hun hút của buồn chán, của thất vọng, của u sầu, và của thê lương. Với họ,
Đức Giêsu như mang tất cả xuống mộ phần, để họ lại như đàn con bơ vơ, như chiên
không có người chăn. Nhưng thật kỳ diệu thay, khi các ông thất vọng, khi các
ông bế tắc cũng là lúc các ông gặp được niềm vui. Đức Giêsu Phục Sinh đã thay đổi
tâm trạng của các họ.
2. Niềm vui vì gặp Chúa: Cùng nhịp bước với hai môn đệ
trên đường về Emmau, Chúa
Giêsu đã khiêm nhường, từ tốn giải thích Kinh Thánh cho các ông được rõ, bắt
đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ. Người lấy lại những điểm đã được trưng
dẫn trong Cựu Ước liên quan đến Người, để chứng minh Đấng Kitô phải chịu khổ
hình như thế rồi mới vào trong vinh quang của Người. Được nghe cắt nghĩa Kinh
Thánh, lòng hai ông bắt đầu bừng sáng. Và đến lúc gần vào làng hai ông muốn
đến, Chúa Giêsu giả vờ như còn phải đi xa hơn nữa. Sự giả vờ ở đây không có ý
nói Chúa Giêsu gian dối, không thật. Dụng ý của tác giả là nói đến lòng hiếu
khách của hai ông. Giờ đây hai ông đã có thiện cảm với người bạn đi đường, sợ
người bạn đường gặp nguy hiểm giữa đêm tối nên đã mời dùng bữa với họ. Và trong
bữa ăn, họ đã mời Chúa cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng; đó là vai trò quan
trọng nhất trong bữa tiệc người Do Thái. Ai cầm bánh mà đọc lời chúc tụng, đó
là người được ưu tiên nhất. Như vậy, hai môn đệ, từ thái độ có vẻ khinh thường
Chúa Giêsu, sau khi được nghe giảng Kinh Thánh, lòng bừng sáng lên và biết
thương người, biết mời người khác vào dùng bữa với mình và còn nhường cho khách
chỗ cao trọng trong bữa tiệc. Giờ đây, họ biết quan tâm người khác, không còn
kiêu ngạo nữa. Chúa Giêsu biết đây là cơ hội thuận tiện cho việc tỏ mình là Đấng
Phục Sinh. Người cầm lấy bánh, bẻ ra và trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ
nhận ra Người.
Như vậy, trong màn đêm u tối nhất,
trong nỗi thất vọng ê chề nhất, Đức Kitô Phục Sinh đã đồng hành với hai môn đệ,
để họ có thể nhận ra Người là “Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Cũng
vậy, khi ta thất vọng, khi ta buông tay đầu hàng, khi ta lột khỏi tính kiêu
ngạo, không còn cho mình là cái rốn của vũ trụ, nhưng khiêm tốn, khao khát
Chúa, đó chính là lúc Chúa đưa tay ra cho ta nắm lấy. Có Chúa đồng hành, bóng
tối dày đặc của con người trở thành bình minh chiếu sáng, biến u sầu của con
người thành niềm vui hoan hỉ, biến cái chết của con người thành sự sống lại,
biến cuộc ra đi của con người thành sự quay gót trở lại kinh thành Giêrusalem,
nghĩa là hướng về sự sống và hướng về cuộc chiến thắng do Thánh giá mang
lại (x. Dt 11,34).
Và khi niềm vui phục sinh được đong đầy, hai môn đệ đã nhanh bước quay gót trở
lại Giêrusalem để sẵn sàng làm chứng tá cho Chúa.
Chúng ta cũng vậy, cuộc đời chúng ta
đầy những thánh giá nhưng nếu chúng ta biết đón nhận vui vẻ, thập giá sẽ nở hoa
phục sinh. Chúng ta không thể cảm nghiệm được niềm vui phục sinh nếu chúng ta
không có trải nghiệm của thánh giá. Chúng ta không thể nào gặp được Thiên Chúa
nếu chúng ta không đóng đinh những ý tưởng hạn hẹp, những quan niệm lệch lạc, những
ích kỷ hẹp hòi và những thói đời của chúng ta. Hai môn đệ lúc đầu có vẻ ngông nghênh
tự đắc nên không nhận ra Chúa nhưng nhờ được Chúa đồng hành và cắt nghĩa Kinh
Thánh, các ông đã trở nên khiêm nhường và nhận ra Người. Chi tiết đó phản ánh
vẻ đẹp của Thánh lễ, vẻ đẹp của một cộng đoàn có Chúa ở cùng. Bí
tích Thánh Thể hiện tại hóa sự hiện của Chúa Giêsu và những cử chỉ cứu độ của
Người cho nhân loại. Điều này nhắc chúng ta một điểm quan trọng rằng, Thánh lễ
không phải là sự quy tụ của một nhóm người có thái độ hời hợt, thụ động nhưng
là một cộng đoàn hiệp thông chia sẻ đức tin, đức cậy và trong tình yêu Chúa
Kitô.
Kết luận: Như
vậy, từ tâm trạng não nề thất vọng trên hành trình về Emmau, hai môn đệ đã được
Chúa Phục Sinh đồng hành, giải thích Kinh Thánh, cùng đồng bàn với họ và lòng họ
được bừng sáng. Phần chúng ta, giữa
những ồn ào náo nhiệt của cuộc sống nổi trôi, giữa những sục sôi tranh chấp
trong kiếp người, giữa những u hoài lo lắng cho cuộc sống mưu sinh như cơm áo
gạo tiền, giữa những căng thẳng của việc miệt mài đèn sách, giữa những lo toan
để tìm kiếm một lối đi cho hành trình ơn gọi, và giữa những chán nản, thất
vọng, lê bước trong cuộc đời, khi con thuyền cuộc đời chúng ta chông chênh trôi
dạt theo triều sóng, chúng ta hãy bỏ neo vào Đấng đã chiến thắng sự chết, đã
chịu mai táng, bị chôn vùi một thời gian ngắn trong lòng đất và đã phục sinh để
mang lại niềm hy vọng cho chúng ta. Và ngày nay, Ngài còn hiến tế mỗi ngày trên
bàn thờ để làm của ăn của uống nuôi sống chúng ta. Chúng ta được mời gọi kết
hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, và sau khi được gặp Chúa Giêsu
trong nhiệm tích này, chúng ta cũng hãy trở về với Giêrusalem, đó là trở về với
cuộc sống thường nhật của chúng ta để sống và làm chứng cho tình yêu. Xin cho
niềm vui phục sinh đong đầy trái tim chúng ta để chúng ta trở nên chứng nhân tình
yêu cho Chúa giữa lòng đời.
Tác giả:
Lm. Jos Đồng Đăng
|