(Mt
10,26-36)
Lm.
Jos. Đồng Đăng
Là người Kitô hữu, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng
tin rằng Đức Giêsu Kitô là Sứ Giả Hoà Bình, Ngài đến thế gian để
đập tan xiềng xích tội lỗi và đưa con người đến miền đất tự do. Sứ
điệp đó đã được Tiên tri Isaia loan báo từ thời Cựu Ước (x. Is 9,5).
Thế mà trong Kinh Thánh Tân Ước, chúng ta lại gặp thấy những câu Lời
Chúa xem ra thật chướng tai. Sứ điệp hoà bình lại được nói đến như
một cái gai trong mắt người đời: “Anh em đừng tưởng Thầy
đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem
gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha,
giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình
chính là người nhà” (Mt 10,34-36). Vậy, ‘gươm giáo’ mà Đức Giêsu muốn đề
cập đến ở đây là gì và giữa cảnh ‘gươm giáo’ chúng ta cần làm gì để có bình
an?
1. Thầy
đến không phải để đem ‘bình an’, nhưng để đem ‘gươm giáo’
Trước khi nhận diện ‘hòa bình’ đích thực mà Đức Giêsu
mang đến cho nhân loại, thiết tưởng chúng ta cần hiểu từ này trong bối cảnh
văn hóa và tâm thức của người Do Thái. Cốt
lõi của Đạo Do thái là mong chờ Đấng Mêsia, một vị vua theo ý người
phàm. Bởi vương quốc Ítraen liên tiếp bị các đế quốc lớn thôn tính nên người
Do thái ngày càng trở nên thất vọng với thực tại, những gì đã và đang xảy
ra trong đất nước của họ như là những áng mây u ám, vì thế, họ tin
vào một Đấng Thiên Sai sẽ đến từ dòng dõi Đa vít, Đấng sẽ mở ra
một kỷ nguyên xán lạn. Họ tin rằng, sự xuất hiện của Ngài sẽ đem
lại sự thống nhất mang tính vật chất trong toàn cõi Giuđa và người
Ítraen từ bốn phương phải hội về tất cả như lời ngôn sứ Isaia đã
loan báo: “Người sẽ phất cờ hiệu cho các dân tộc, và từ bốn phương thiên hạ,
sẽ quy tụ những người Ítraen biệt xứ, sẽ tập họp những người Giuđa bị phân tán”
( Is 11,12).
Kỷ nguyên của Đấng Mêsia sẽ là một thế giới hoà bình cho toàn thế
giới: “Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia, và phân xử cho muôn dân
tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái.
Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề
chinh chiến” (Is 2,4).
Vậy,
tại sao khi Đức Giêsu đến Ngài lại nói sẽ “đem gươm giáo” và “gây chia
rẽ” giữa những người thân nhân máu mủ với nhau? Theo thiển ý, sứ điệp
này cần được hiểu như sau:
Trước
hết, “gươm giáo” ở đây chính là một sự giằng co, căng thẳng, tựa như
một hòn đá làm cho vấp nhưng lại rất có hiệu quả bởi vì nó đặt
con người trước một sự chọn lựa dứt khoát hoặc theo giáo huấn của
Chúa hoặc theo “khói của Satan”. Theo Chúa ắt phải chịu thiệt thòi,
bị người đời hiểu lầm, bị bỏ vạ cáo gian. Chính Chúa Giêsu có lần
cũng bị người nhà hiểu lầm, tưởng Ngài đã mất trí khi cứ mãi mê
rao giảng về Vương Quốc Thiên Chúa mà quên đi mọi thiệt thòi cho mình
(x. Mc 3, 20-21).
Thứ
đến, sứ điệp Lời Chúa tựa như lưỡi gươm sắc bén, như một phương thế, có
sức cật vấn lương tâm chúng ta, chất vấn sự gian dối của chúng ta.
Nó lôi ta ra khỏi sự thoải mái và đẩy ta vào cuộc chiến đấu thiêng
liêng, bắt ta phải chấp nhận thương đau vì chân lý, nhờ đó mới có
hoà bình đích thực. Cuộc chiến đấu vì hoà bình luôn trải qua gian nan
thử thách, vì thế thành ngữ La tinh có câu: “Si vis pacem, para bellum”
(nếu muốn có hoà bình cần phải chuẩn bị chinh chiến), nghĩa là cần
phải sẵn sàng vượt qua mọi rào cản để đến với chân lý, để rao
giảng và bảo vệ chân lý.
Ngoài
ra, “gươm giáo” ở đây cũng có thể hiểu là cuộc tử đạo để bảo vệ
đức tin của người Kitô hữu. Biết bao vị thánh đã đổ máu đào mình ra
để bảo vệ đức tin dù khi các ngài phải đứng trước mũi giáo của
bọn lý hình. Sự hy sinh anh dũng của 117 vị thánh tử đạo Việt nam
là lời chứng tuyệt vời cho chúng ta. Những lời tuyên tín đầy khẳng
khái của các thánh còn vang vọng tới hôm nay: “Thân xác tôi ở trong tay quan… nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có
gì khiến tôi hy sinh nó được” (Thánh
Phaolô Tịnh). Và cả chúng ta, là những người theo Chúa, chúng ta cũng phải hững
chịu bao cảnh “gươm giáo” nhưng Chúa luôn trấn an chúng ta và khuyến khích
chúng ta bước theo và làm chứng cho Người.
2. Giữa cảnh ‘gươm giáo’, Chúa bảo: Đừng sợ!
Những cảnh “gươm giáo” theo cách hiểu
trên đây thường xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của người theo Chúa. Đó là sự nhẫn nhục, kiên trì của những cô dâu
người công giáo phải vượt qua rào cản “bia miệng” của nhà chồng (lương
dân) để đi nhà thờ, tham dự thánh lễ hay các sinh hoạt tôn giáo; sự
can đảm của những sinh viên, thầy cô giáo lý viên hay doanh nhân công
giáo luôn một mực trung thành với Chúa mà quyết không kết nạp một
đảng phái nào có nguy cơ phương hại đến niềm tin tôn giáo; sự cương
quyết của những người Kitô hữu một mực trung thành sống theo luật Chúa dạy,
không nhắm mắt chạy theo sự lôi cuốn của tiền tài, danh vọng và quyền lực.
Ngoài ra, còn biết bao chứng nhân khác đã và đang đấu tranh cho công lý
và hoà bình của thế giới, cách riêng trong bối cảnh xã hội Việt nam hôm
nay phải hứng chịu những hiểu lầm, những nghi ngại, những rào cản vô hình nào
đó. Vậy, trước cảnh ‘gươm giáo’, chúng ta cần có thái độ nào?
Trong đoạn Tin mừng theo Thánh Mathêu 10,26-33, Đức Giêsu đã
cảnh báo các môn đệ của Người là họ sẽ bị bách hại. Tuy nhiên, Người đã khuyến
khích các ông: đừng sợ! “Điều Thầy nói với anh
em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy
lên mái nhà rao giảng” (Mt 10,27). Người còn nói: “Anh
em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn ” (Mt
10,28). Như vậy, việc Chúa sai các tông đồ đi rao giảng Tin mừng không đảm bảo
cho các ngài được thành công, cũng không đảm bảo cho các ngài được dễ chịu,
không đảm bảo cho các ngài được người ta chúc tụng khen lơn, không hứa hẹn cho
các ngài những tràng vỗ tay, những cảnh rước xách linh đình, trống kèn loa
lọng, v.v, trái lại, cần biết rằng “người ta có thể từ chối họ, cũng như bách
hại họ. Điều này có thể làm cho chúng ta có đôi phần sợ hãi, nhưng đó là sự
thật.”
Người
môn đệ được kêu gọi rập đời mình theo Đức Kitô, Đấng đã bị người đời bách hại,
từ chối, bỏ rơi và giết chết trên thánh giá. Không có sứ mệnh Kitô giáo nào đảm
bảo cho chúng ta được bình an cả! Những khó khăn thử thách và những nỗi gian
truân quẩn bách như là những thành tố tất yếu tạo nên công cuộc loan báo Tin
mừng, và trong những cảnh huống khó khăn đó, Chúa kêu mời chúng ta sống mối
tương quan với Đức Giêsu, cảm thấu nỗi thống khổ của Người, sẻ chia sứ mệnh của
Người. Chúng ta được mời gọi đón nhận những khó khăn như những cơ hội để trở
nên chứng nhân loan báo Tin mừng cho Chúa. Và giữa gian nan, chúng ta được nhắc
nhở luôn rằng, Chúa là Đấng quan phòng, không bao giờ bỏ rơi chúng ta giữa cơn
bão tố. Chúa luôn bảo chúng ta: các con đừng sợ!.
Lần giở lại những trang Kinh Thánh, chúng ta thấy nhiều tấm
gương kiên trung cảu các thánh trong việc loan báo sứ điệp Nước Trời cho tha
nhân, dù các ngài luôn bị hiểu lầm và bị bách hại. Ngôn sứ Giêrêmia là một tấm
gương điển hình trong thời Cựu Ước. Những lời đanh thép của ngôn sứ Giêrêmia phê phán xã hội bất công thời của ông vẫn còn đó. Ông đã cực
lực lên án những hành vi bất chính của vua Giơhôgiakim (609-598) rằng: “Khốn
thay kẻ xây nhà xây cửa mà không đếm xỉa tới lẽ công bình. Khốn thay
kẻ xây lầu son gác tía mà chẳng màng chi đến điều chính trực. Khốn
thay kẻ bắt anh em mình làm lụng vất vả mà không tính công sá, không
trả thù lao… Nó sẽ được chôn cất như một con lừa ” (X.
Gr 22,13-19). Sở dĩ có những lời chỉ trích cay nghiệt như thế là vì
nhà vua bắt dân đen phải đóng sưu cao thuế nặng để triều cống cho
ngoại bang là vua Ai cập. Tuy nhiên, những lời sấm của ông ‘chẳng
nặng tày mây khói’, chỉ tựa ‘hạt cát dính bàn
cân’ trước sự điếc lác của đám dân khốn nạn. Thay vì
mau mắn nghe lời và đáp trả, đám dân này lại xem lời rao giảng của
Giêrêmia như trò đùa và mặc sức cười nhạo. Những thánh giá mà ông
phải hứng chịu càng nặng nề chua chát gấp bội khi những bia miệng
ấy lại đến từ đám bà con thân thuộc của ông.
Trước
những lời nhạo cười chua chát của dân Ít-ra-en, trước lòng chai dạ
đá của đám dân tội lỗi này, ngôn sứ Giêrêmia đã phân trần cùng Chúa:
"Suốt ngày con trở nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng
con " (Gr 20,7). Đã nhiều lúc ông định rút lui và
than rằng: "Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói
nữa" (Gr 20,9). Trước mắt ông chỉ là vực sâu hun hút của hư vô và
thất vọng ê chề.
Tuy
nhiên, chính tình yêu nhưng không của Thiên Chúa đã can thiệp và xoay
chuyển cuộc đời ông như chính ông đã nói: "Lời Ngài cứ như ngọn
lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt" (Gr 20,9). Và sự
thúc bách đó như một hấp lực khiến vị ngôn sứ không thể cưỡng lại
được. Ông đã đứng phắt dậy tiếp tục cuộc hành trình, mặc cho mọi
rào cản vẫn đang giăng lối. Như vậy, làm người ngôn sứ thì phải vượt qua
bia miệng, dám đương đầu với ‘gươm giáo’ của người đời mới có thể làm chứng
nhân cho Chúa.
Kết luận:
Tóm lại, hoà bình mà Đức Giêsu rao giảng trên đây là hoà bình được
dệt nên từ hy sinh và đau khổ vì chân lý. Chính những tranh luận và
những xung khắc trong cuộc sống – nếu vì mục đích chính đáng để bảo
vệ chân lý, sẽ có sức phá vỡ lớp vỏ của ích kỷ, hẹp hòi hay hàng
rào vô tín và đưa chúng ta tới sự thật đích thực là Chính Chúa.
Trong khi thực thi sứ vụ loan báo Tin mừng, người Kitô hữu chắc chắn sẽ gặp
nhiều gian nan thử thách, tuy nhiên, họ luôn được mời gọi hãy xác tín vào Chúa
là Đấng không để con cái mình ‘đơn thương độc mã’ nhưng luôn đồng hành với họ
và nâng đỡ những bước chân truyền giáo của họ. Chúng ta hãy tin tưởng vào lời
trấn án của Chúa ‘đừng sợ !’ và hãy sẵn sàng dấn thân để loan báo Tin mừng
bình an của Chúa cho muôn dân.