Đối với người Kitô hữu phương tây ở
thế kỷ XXI này thì tin vào Chúa Kitô có ý nghĩa gì, thưa cha?
Theo như tôi thấy thì cả chuyện tin
vào Đức Giêsu lẫn tin vào người anh chị em quanh chúng ta đều có vấn đề…và đều
suy giảm từng ngày…Bản thân tôi, tôi cho rằng có một sự liên đới giữa hai niếm
tin ấy : người ta thấy mình tin vào Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô như thế nào
thì người ta cũng cảm nhận một sự bắt buộc phải tin vào người anh chị em mình
như thế, chẳng hạn người anh em cùng khốn ở ngay bên cạnh mình…Nhưng nếu người
ta đánh mất đức tin của mình vào Thiên Chúa của Đức Kitô…thì không dám bảo rằng
ngay tức thì người ta cũng đánh mất niềm tin của mình vào tha nhân, nhưng tin
vào tha nhân lúc này trở thành một điều gì đó rất khó…Tại sao vậy ? Thưa…tại vì
tha nhân gây khó chịu cho tôi, tha nhân tìm cách sát hại tôi, tha nhân tìm cách
đánh cướp địa vị của tôi, tha nhân không để cho tôi yên…Nếu bạn thấy rủng rỉnh đủ để tự khoản đãi chính mình một bữa
ăn ra trò, bạn sẽ không thích thú gì khi thấy ngay cạnh khung cửa nhà hàng một
người anh em đứng đấy với bàn tay sần xùi chìa ra với mọi người ra vào…Cái hình
ảnh tội nghiệp ấy gây khó chịu, phải không? Và rồi cuối cùng thì người ta buộc
phải “mời” vị khách không mong muốn ấy rời đi !!! Tôi nghĩ rằng, thưa bạn, đấy
cũng là sự thật về Thiên Chúa của Đức Kitô đấy – điều mà Michel de Certeau đã cảm
thấy sẽ xảy ra cách rõ ràng : Đức Giêsu bị xóa sổ nơi những người cùng khốn !!!
Tôi xin phép được gắn kết cơn khủng
hoảng đức tin này với cơn khủng hoảng về các thứ khoa học phương tây được
Husserl công bố…khi ông chứng minh rằng
ông nhận thấy tư tưởng tây phương ở thế kỷ XX có nguy cơ đánh mất tầm
nhìn của mình vào cực vô cùng của tinh thần…Tư tưởng hy lạp vạch ra cho ông ta
thấy cái cực vô cùng ấy…Thế nhưng như vậy đã đủ chưa ? Tư tưởng hy lạp là một
tư tưởng chứa đầy sự hiện diện của những thần minh. Thần minh của triết học,
nhưng không chỉ có vậy. Socrate tin tưởng vào Vị Thiên Chúa duy nhất và không
muốn dâng lễ vật lên các vị thần của Thành Phố. Có một sự thông đồng rất gần
gũi nào đó giữa tư tưởng về Thiên Chúa và Thành Phố - sự gần gũi ấy đưa đến việc
hợp luật hóa sự tồn tại của Thành Phố…Các thẩm phán trong Thành Phố đã kết án tử
Socrate. Tôi cảm nhận nghe được lời than vãn của Antigone đứng trước bản án có
một âm hưởng thời sự rất lớn ở thời đó và ở mọi thời : phải chăng con người là
nạn nhân của một định mệnh nhất định do các thần minh định đoạt ? Lý lẽ của
Chính Quyền có ở trên quyền con người của cá nhân không ?
Kitô giáo – thủa khai sinh – đã thổi
bùng lên thứ tôn giáo của xã hội…và là thứ tôn giáo không có một “môi trường”
riêng, bởi hình thành trong Do thái giáo, nhưng chỉ thực sự là Kitô giáo khi
tách rời khỏi Do Thái giáo – thực vậy, không những chỉ bị tách rời mà thôi
nhưng Kitô giáo còn bị săn lùng khắp nơi khắp chốn…
Thưa
quý độc giả - càng đi sâu vào tác phẩm, người viết càng nhận ra là tác phẩm được
viết cho người Công Giáo phương tây…và nói đến các vấn đề đặc thù của Công Giáo
phương tây…Chính vì thế, người viết sẽ chọn những vấn đề chung chung và gần gũi
với Công Giáo Việt Nam để chia sẻ…Cũng may là từng vấn đề nhằm trả lời cho từng
câu hỏi…nên việc chọn lựa cũng tương đối dễ dàng…Thỉnh thoảng đương nhiên cũng
có những ngắt quãng…hơi đột ngột…Mong thông cảm…
Đây đó trong những trao đổi trước,
cha đã nhấn mạnh về tầm quan trọng của các sách Tin Mừng, nghĩa là của Tân Ước,
đối với người Kitô hữu…Vậy Cựu Ước thì sao? Đâu là lợi ích mà Cựu Ước mang lại?
Đối với người Kitô hữu chúng ta, Kinh
Thánh trước tiên được coi là ký ức của Đức Giêsu : Ngài luôn luôn trích dẫn
Kinh Thánh…và cũng trong Kinh Thánh, Ngài đọc và nhận ra trước cái phận số, cái
định mệnh của chính mình…Kinh Thánh cũng là ký ức của cácTông Đồ và các Thánh Sử
- các ngài đã hiểu và đã dạy về Đức Giêsu qua ánh sáng của Cựu Ước, ánh sáng mà
chúng ta cũng phải nhận ra thật rõ để có thể hiểu những gì được viết về Ngài –
Đức Giêsu Kitô…
Lúc này thì việc hiểu biết về Cựu Ước
thật ra đang trong tình trạng có những thay đổi…Sự hiểu biết ấy không ngừng trở
thành vấn đề kể từ khi có những khởi đầu trong ngành chú giải dựa vào những tìm
tòi có tính khoa học, nghĩa là từ thế kỷ
XVI, nhưng tình trạng có vẻ dồn dập hơn từ khi có những cuộc đào bới khảo cổ ở
thế kỷ vừa qua, từ cuộc khám phá và việc tìm cách đọc những ghi chú, những sử
biên niên, những tài liệu thư viện, những bản viết tay, những di tích lịch sử
và tất cả các dấu vết còn lại của những nến văn hóa cổ xưa của Ai cập,
Mésopotamia, Do Thái…Những tác phẩm rất mới hiện nay đặt lại vấn đề về khoa viết
sử Kinh Thánh, và những tác giả rất nghiêm túc đã thẳng thắn nói về “tính hư
cấu” trong Kinh Thánh, và cả về gốc gác của dân Do Thái nữa (xem trong
Shlomo Sand, Comment le peuple juif fut inventé, Fayard, 2008, traduit de
l’ébreu, NdE)…Cho nên Kinh Thánh Cựu Ước có muôn vàn những vấn đề đối với các sử
gia, các nhà chú giải, và các thần học gia…Và vì thế một sự hiểu biết tốt về lịch
sử và việc trước tác Kinh Thánh là vô cùng cần thiết để hiểu được về tư tưởng
tôn giáo, về luật lệ, về nghi thức thờ phượng, và dĩ nhiên là về mạc khải của
Kinh Thánh Cựu Ước…
Nghĩa là sao, thưa cha?
Bạn à, ngày nay chúng ta biết rõ rằng
toàn bộ các sách Ngũ Thư đã được bịa ra vào thế kỷ VI – V trước kỷ nguyên của
chúng ta, và tất cả những câu chuyện về các Tổ Phụ, câu chuyện xuất hành ra khỏi
Ai Cập và cuộc khải hoàn vào đất Canaan…đều được xếp vào những loại chuyện huyền
thoại…Đối với nhà thần học thì Cựu Ước không còn được coi là số một trong việc
chứa đựng những sự thật có tính cách giáo điều nữa, mà chỉ là một tổng hợp rộng
rãi bao gồm những tường thuật dữ kiện, những lời tiên tri liên quan gần với lịch
sử của các triều đại Israel và Yuđa, các hướng dẫn cử hành các nghi thức và đạo
đức…mà gốc tích cũng như tính cổ xưa nay bị đặt lại vấn đề…Dĩ nhiên Cựu Ước
cũng cho thấy là một tôn giáo vốn chứa đựng
một giáo lý rất đẹp về Thiên Chúa, đặc biệt là trong các ngôn sứ, và Kitô giáo
đã tiếp nhận di sản ấy, nhưng việc việc thực hành lại trở thành đối tượng của một
sự phản kháng mãnh liệt từ các ngôn sứ, và điều ấy cũng mang tính cách giáo dục
rất tốt cho các Kitô hữu thời của chúng ta hộm nay…Nghĩa là bà con Công giáo
chúng ta nhận ra rằng nhờ Cựu Ước kể lại câu chuyện về ơn cứu độ mà Tân Ước nhận
ra vai trò kết thúc của mình; và kỹ thuật biên soạn lịch sử hiện giờ cho thấy
dân Israel chưa bao giờ biết đến ơn cúu độ…theo kiểu mà dân tộc ấy nghĩ ra
trong cái quá khứ huyền thoại của mình, dưới những nét vẽ về một dân tộc được bảo
vệ chống lại các kẻ thù và được đổ tràn những ơn lành của vị Thiên Chúa rất
riêng của dân tộc mình. Các nhà thần học Công giáo phải quan tâm đến tất cả những
khám phá ấy – những khám phá buộc phải đặt
lại vấn đề về năng lực nhận thức về lịch sử ơn cứu độ…cũng như khái niệm về ơn
cứu độ vẫn được Giáo Hội giảng dạy…
Dù là với những kho tài liệu mang nội
dung như thế đó – nhưng tại sao Kinh Thánh vẫn giữ được tầm quan trọng phải có
đối với người Kitô hữu?
Với người Kitô hữu, Kinh Thánh chính
là ký ức của Đức Giêsu, là lịch sử của Người, là phả hệ của Người, và
cũng là tôn giáo Người thực hành, đồng thời đại để là nguồn tư tưởng của Người,
là sứ mệnh, là ý tưởng về Thiên Chúa cũng như về tương quan của Người với Thiên
Chúa, hay ít ra thì cũng là môi trường từ đó Người có được mối liên kết
với Thiên Chúa. Cựu Ước rất quan trọng bới vì Đức Giêsu luôn dựa vào đấy, Người
đã từng tìm cách để hiểu biết chính mình dựa trên cái nền tảng của “lịch sử
thánh” này. Người đã tìm hiểu về số phận mình và coi những gì đã từng xảy ra với
các ngôn sứ…thì cũng sẽ xảy ra với chính mình…Và Cựu Ước cho thấy là
Thiên Chúa không “đột nhiên” quyết định việc chăm lo cho con người đâu.
Hạn từ “đột nhiên” - “soudain trong tiếng Pháp” và “subito trong tiếng La tinh”
– là một hạn từ xuất hiện trong các cuộc tranh luận giữa người Công giáo và
thuyết dị giáo Marcion – xuất hiện vào giữa thế kỷ II…và muốn cắt đứt mọi mối
tương quan giữa Cựu và Tân Ước, chủ trương Thiên Chúa chỉ vừa mới tự mạc khải
nơi Đức Giêsu một cách bất ngờ…Không, Thiên Chúa của Đức Giêsu không phải
là một Vị Thiên Chúa mới mẻ… không ai biết đến trước khi Đức Giêsu cho
chúng ta biết về Người…Điều đó chứng tỏ mối tương quan giữa Thiên Chúa và nhân
loại là một mối tương quan xưa cũ rồi, xưa cũ có lẽ còn hơn cả mối tương quan
được diễn tả trong Giao Ước Đầu Tiên…Và điều đó buộc phải đặt để vị Thiên Chúa
của người Do Thái ngang hàng với các vị thần minh vùng Lưỡng Hà : Người là một
trong số các vị thần minh ấy…thì làm sao mà có thể trở thành duy nhất được
? Thiên Chúa của Đức Giêsu – Đấng đồng hóa với Thiên Chúa của người Do Thái –
không hề quăng bỏ tất cả các vị thần minh khác vào chốn hư không…để mà chiếm lấy
địa vị của họ, nhưng cho thấy rằng Người ở trên đường tự mạc khải chính mính
qua tất cả các thần minh sau này được coi là thần minh giả và rằng – từ muôn
muôn thủa – Người tiếp cận con người qua tất cả các tôn giáo…
Và rất là thú vị khi kỹ thuật biên soạn
lịch sử Kinh Thánh mới mẻ sau này cho chúng ta thấy rằng Yahvé - Thiên Chúa của người Do Thái – đã xuất hiện
trong lịch sử vào khoảng thế kỷ X ( hay sớm hơn) trước kỷ nguyên Công giáo và
xuất hiện giữa một khối các vị thần minh khác của vùng Trung Đông, và Người là
một trong những vị thần nhỏ nhất, được tin tưởng và tôn thờ như bao nhiêu vị thần
của các dân tộc khác và ở giữa các vị thần khác, nhưng rồi – trước cuộc hồi
hương sau lưu đày và vào quãng thế kỷ VI – là
thời điểm của truyền thống Giavê thắng thế - đồng thời cũng là thời điểm
các ngôn sứ đề cao việc thờ phượng Giavê Thiên Chúa duy nhất và tối cao…Và từ đấy,
Giavê không chỉ là Vi Thần cao cả hơn các thần minh khác…mà Người còn là Thiên
Chúa duy nhất…
Tất cả những điều đó cho thấy Thiên
Chúa duy nhất – Đấng tự mạc khải mình nơi Đức Giêsu vào một thời gian nào đấy
và trong một nơi chốn nào đó ở giữa vũ trụ này
- thì Người cũng đã từng mạc khải chính mình qua các thần minh của đa thần
giáo với một cách thế hoàn toàn khác với việc Người tự mạc khải nơi Đức Giêsu –
Người không rẫy bỏ bất cứ một dân tộc nào vì những niềm tin sai lệch của họ, và
Người tìm cách để mọi người có thể nhận biết Người như Vị Thiên Chúa duy nhất với
chỉ một nỗi băn khoăn thôi: đấy là làm
sao để kết hợp tất cả nhân loại nên một…Đó mới chính là điều phải suy nghĩ về nền
văn minh hôm nay : nhân loại đã trải qua nền giáo dục của mình khi đặt mình
trong ngôi trường của Thiên Chúa, và sau khi đã đặt để niềm tin của mình nơi vô
số các thần minh này/khác cũng như vị thần thổ địa của mỗi quốc gia, thì đã đến
lúc phải đặt để niềm tin của mình nơi Thiên Chúa duy nhất – Vị Thiên Chúa duy
nhất của một gia đình nhân loại duy nhất…Và , thưa bạn, đấy là Kitô giáo – con
đường bắt rễ tử Do Thái giáo, trải qua các tôn giáo cổ xưa nhất của thế giới
xưa – và hôm nay ý thức về việc phải trải rộng tầm nhìn của mình để tầm nhìn ấy
mang mặc tính phổ quát…cho toàn thể…
Và điều đó không có nghĩa là phải đưa
Đức Giêsu quay trở lại với quê hương Do Thái
hay Đạo Công giáo trở lại với Do Thái giáo – bởi người Kitô hữu đã được
giải thoát khỏi chế độ nệ luật qua cái chết của Đức Giêsu – Đấng bị lên án nhân
danh Lề Luật, và hành vi giải thoát, giải phóng này đã trở thành hành vi nền tảng
của Kitô giáo – hành vi dứt khoát không cho phép Kitô giáo quay trở lại với chế
độ của các thứ nghi thức tế tự trước đây nữa, nghĩa là quay trở lại với quy chế
của các tôn giáo cổ xưa. Và vì thế Cựu Ước là mối tương quan của Đức Giêsu với
lịch sử của con người và việc Thiên Chúa đến với con người qua giòng lịch sử ấy…Chính
vì vậy nên Kitô giáo phải giữ mối tương quan với Kinh Thánh Cựu Ước, và dĩ
nhiên là với dân Do Thái nữa, bởi trong hôm nay họ vẫn là chứng nhân về những
gì đã xảy ra cho Đức Kitô…Cho nên tôi dám nói rằng tầm quan trọng của Cựu Ước nằm
ở chỗ nhắc lại cho Kitô giáo về điều mà họ không được phép vấp phạm nữa – nghĩa
là người ta không được phép rơi vào lại cái ngày xưa nữa, bởi cái ngày xưa chỉ
là để chuẩn bị cho cái mới mẻ, cái hôm nay…Nếu chúng ta quay trở lại với Cựu Ước…và
chúng ta làm như vậy vì đấy là quê hương của Đức Giêsu…thì mục đích cũng chỉ để
là khám phá ra cái Mới vốn đã từng được mạc khải ở đấy, và học để chính mình được
cái Mới ấy đưa chúng ta đến với sự mới mẻ liên tục phát triển giúp chúng ta cận
kề ngày một hơn với Thiên Chúa…Việc chú giải Cựu Ước bởi cái Mới cũng buộc
chúng ta giải thích lại cái Mới trong sự mới mẻ của thời đại, của hôm nay…
Nói cách khác, Kitô giáo không chỉ là
tôn giáo mà thôi, càng không phải là tôn giáo như các tôn giáo khác : đấy là tất
cả ý nghĩa của sự giải phóng khỏi khoản luật đã từng mang lại cái chết cho Đức
Giêsu nhân danh Lề Luật…Đấy là hành vi mang tính nền tảng của Kitô giáo…Cho nên
vấn đế quan trọng là Kitô giáo phải giữ cho bằng được mối tương quan của mình với
Cứu Ước để rối – qua Cựu Ước – Kitô giáo bảo đảm được mối tương quan của mình với tất cả các
tôn giáo khác trên thế giới – những tôn
giáo cổ xưa cũng như hiện đại – và cũng chính vì vậy mà Kitô giáo phải
tái nối kết những tương quan bằng hữu cũng như thân thuộc với dân tộc Do thái
hiện nay; đồng thời Kitô giáo cũng không để mình quay trở lại với chế độ nô lệ
Lề Luật, không để cho mình rơi vào tình trạng tuân phục hệ thống những tôn giáo
của các thời đại cổ xưa, bởi vì Kitô giáo – nhân danh Thiên Chúa – là tôn giáo
mang lại sự giải thoát con người khỏi tất cả những cái ách tôn giáo…để con người
có thể trở nên một dân tộc, một nhân loại…
Đồng thời cùng với việc vượt qua
phong cách tôn giáo hình thức, Kitô giáo được Đức Giêsu mời gọi để trở thành
hành vi tôn thờ đích thật Thiên Chúa trong tinh thần và sự thật (Ga 4,
23) – mặc dù cho đến bây giờ, người ta vẫn chưa có thể biết được sự việc ấy sẽ
đưa Kitô giáo đến đâu, và đấy chính là điều mà cơn khủng hoảng tôn giáo hiện
nay buộc chúng ta phải suy nghĩ. Bà con Kitô hữu phải giữ Giáo Ước cũ…bởi Giao
Ước mới đã có sẵn đây rồi…và là Giao Ước thai sinh từ Giao Ước cũ – Giáo Ước mới
có sẵn đấy như một sự mới mẻ tuyệt đối luôn luôn thúc đẩy để có được những tiến
triển mới mẻ khác nữa…Chính trong nhãn giới ấy mà – với người Kitô hữu - Kinh
Thánh có một ý nghĩa khác với Kinh Thánh
người Do Thái đọc trong não trạng gắn kết với những gì mang tính cách đặc quyền
đặc lợi và hoàn toàn cá biệt của Do Thái giáo…Qua việc đi từ Tân đến Cựu Ước, người Kitô hữu thấy mình được mời gọi
giải thích lại cái Đạo của chính mình…để tránh cho Đạo khỏi trở thành một thứ
Luật Lệ mới : chính bằng cách đó mà người Kitô hữu – từ những bản văn Cựu Ước
- có thể làm cho bung ra sự mới mẻ luôn
tươi sáng của Tin Mừng…
Giuse Ngô Mạnh Điệp chuyển dịch