Kính
dâng Đức Thánh Cha Leo thứ mười bốn XIV.
Khi khói
trắng bốc lên từ ống khói của điện Sistine, khi tiếng chuông đại hồng ngân
vang giữa bầu trời Rôma, và khi vị tân Giáo hoàng bước ra ban công với đôi mắt
dịu hiền, tôi, một người Công giáo đang sống ở Âu Châu, đã bật khóc…
Tôi
không khóc vì bất ngờ.
Tôi khóc
vì tôi biết rõ con người ấy là ai.
Tôi khóc
vì cảm nhận được rằng Giáo hội đã chọn một người không chỉ giảng dạy đức tin
bằng lời nói mà đã sống trọn từng ngày trong hành động vì người nghèo. Một con
người từng đi qua những mái nhà tranh của Trujillo, từng vượt suối băng rừng
giữa mùa lũ để mang thuốc men đến với người bệnh, từng dùng chính chiếc áo của
mình để che tượng Hài Nhi Giêsu giữa đêm Giáng Sinh giá lạnh khi mái nhà thờ đã
bị gió cuốn bay.
Đức Leo
thứ mười bốn, trước đó là Hồng Y Robert Francis Prevost, không phải là nhân vật
thường xuất hiện trên truyền thông. Nhưng tôi đã đọc về ngài trong các tài liệu
tại thư viện dòng tu và những học viện thần học Công giáo. Những chi tiết đó
không phải là truyền khẩu, mà là dữ liệu được lưu giữ trong các bản tin mục vụ
của Giáo hội địa phương Peru và các bản tường trình chính thức từ thời ngài làm
Giám mục tại Chiclayo.
Ngài
từng đi bộ hơn hai mươi cây số để dâng Thánh lễ cho một cộng đoàn bị cô lập sau
lở đất.
Ngài dùng phần lớn đồng lương cá nhân để mua
lương thực, thuốc men, vở và áo ấm cho trẻ em nghèo.
Có lần,
ngài ôm tượng Đức Mẹ, tay xách giỏ thuốc, lội giữa dòng nước xiết để đến với
một ngôi làng nhỏ bị mưa lớn chia cắt hoàn toàn.
Ngài
từng từ chối bữa ăn duy nhất trong ngày để dành phần đó cho một bà mẹ trẻ đang
mang thai không có gì trong bụng.
Ngài rửa
chân cho người già, lau mặt cho những đứa trẻ bị sốt, và nắm chặt tay những
người hấp hối trong trại phong.
Với
người dân nơi ấy, ngài không mang hình ảnh của một vị giám mục. Ngài chỉ đơn sơ
là cha Roberto, người mục tử hiền lành có thể lắng nghe không cần nói nhiều, có
thể hiểu được nỗi đau mà không cần ai phải diễn giải. Người luôn đến bất cứ lúc
nào ai đó đau khổ, bất kể là sáng sớm hay đêm khuya, giữa nắng gắt hay trong
cơn giông.
Khi ngài
được chọn làm Giáo hoàng, tôi ngồi trong căn phòng nhỏ tại một thành phố cổ
kính ở Âu Châu, dõi theo buổi công bố từ Rôma qua màn hình máy tính. Nhưng
trong lòng tôi, như thể đang đứng giữa quảng trường Thánh Phêrô, và muốn chạy
đến ôm lấy con người ấy, muốn nói một lời cảm ơn thật nhẹ nhưng thật chân
thành. Ngài không mang áo choàng Giáo hoàng để được ngợi khen, mà mang lên mình
một trách nhiệm lớn lao để gánh lấy gánh nặng của đoàn chiên khắp địa cầu.
Tôi là
người Công giáo, tôi tin vào một Giáo hội có thể sản sinh ra những con người
như vậy. Một Giáo hội bước ra khỏi cung điện và đến với mái nhà dột nát, một
Giáo hội biết lắng nghe hơn là ra lệnh, một Giáo hội khiêm tốn cúi xuống thay
vì ngồi trên cao. Đức Leo thứ mười bốn là hiện thân của điều ấy.
Và khi
ngài xuất hiện, tôi đã khóc. Đó không phải là nước mắt yếu đuối, mà là giọt
nước mắt của lòng biết ơn và hy vọng.
Xin Chúa
gìn giữ ngài, người cha mới của toàn thể chúng con. Xin cho thế giới hôm nay,
nhờ gương sáng của ngài, có thể một lần nữa nhận ra khuôn mặt thật của Đức Kitô
qua đôi tay chai sạn và những bước chân âm thầm giữa những miền đất bị lãng
quên…
Maria
Nguyễn Thùy Trang - Tín hữu Công giáo tại Âu Châu…
Và Ngài đã chính
thức dâng Thánh Lễ tạ ơn cũng như khởi đầu sứ vụ Giáo Hoàng của Ngài vào lúc 10
giờ sáng ngày Chúa Nhật – 18/5/2025 – cỡ khoảng 15g chiều cùng ngày tại Việt
Nam…Không ít những gia đình Công giáo Việt Nam đã “sốt sắng” theo
dõi Thánh Lễ qua mạng xã hội…Đây là một nét tích cực của mạng xã hội trong hôm
nay giúp cho từng con người tin có thể nhận được mọi Ơn Lành của Chúa qua những
sự kiện lớn/nhỏ của Giáo Hội ở mọi nơi chốn – Vatican cũng như trên khắp thế
giới…Người viết ngồi trước màn hình máy tính, cảm nhận như có mặt tại Quảng
Trường Thánh Phêrô, có thể nhìn thấy những khuôn mặt và những càm xúc, cảm
nhận…Chắc chắn là tác giả của “Lời Tâm Sự” trên đây cũng có mặt –
hoặc là trực tiếp tại Quảng Trường Thánh Phêrô, hoặc là trước màn hình máy tính
trên bàn làm việc của mình…
Thánh Lễ kéo dài
khoảng hai giờ đồng hồ, và ngoài việc cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa cũng như cử
hành bí tích Thánh Thể, thì điểm nhấn của Thánh Lễ Tạ Ơn và khai mạc sứ vụ
Phêrô là việc Đức Tân Giáo Hoàng được một vị Hồng Y đẳng phó tế đeo vào cổ dây Pallium…mà vị dẫn chương trình Thánh
Lễ tiếng Việt thường dùng danh từ “ÁCH” để
diễn tả…Thực tế dây Pallium diễn tả hình ảnh Vị Mục Tử Nhân Lành mang chiên
trên vai – có thể là chiên lạc mà thực ra cũng là tất cả mọi thành phần Dân
Chúa được Kinh Thánh cũng như chính Chúa Giêsu mượn hình ảnh Bầy Chiên và Người
Chăn để giúp từng người tin sống tương quan gắn bó với Đấng là Mục Tử qua sứ vụ
của Đức Thánh Cha và các vị mục tử được Chúa chọn…Ước mong sao các mục tử của
Chúa đón nhận cái “ÁCH” của riêng mình trong cái “ÁCH”
của Đấng kế vị Thánh Phêrô để cùng nhau chèo chống vì sự sống còn của cộng đồng
con người vốn là gia đình con cái Chúa…Thánh Symêon thành Thessalonica đã viết
trong tác phẩm “ De sacro ordinationibus”
như sau: “ Dây Pallium là biểu tượng của Đấng Cứu Thế - Đấng mang lấy
chiên lạc là mỗi chúng ta trên vai của Người khi Người nhập thể và mặc lấy bản
tính nhân loại… để thánh hóa và hiến dâng chúng ta cho Chúa Cha qua cái chết
trên Thánh Giá và nâng chúng ta lên qua cuộc Phục Sinh của Người ”…Điểm
nhấn kế tiếp là lúc Hồng Y thuộc Đẳng Giám Mục - Hồng Y Luis Antonio Tagle - bước lên, đeo vào ngón tay đeo nhẫn của Đức
Tân Giáo Hoàng chiếc “NHẪN NGƯ PHỦ”…mang ý nghĩa chiếc nhẫn “ấn
tín” của Đức Giáo Hoàng – biểu tượng của Đức Tin và mức độ Tình Yêu
giữa Đức Kitô và Thánh Phêrô, Đức Tin và Tình Yêu được Chúa đón nhận và trao
quyền cho Thánh Phêrô để Ngài củng cố anh em mình…Mang tên là “NHẪN NGƯ
PHỦ” vì Thánh Phêrô – tin vào Lời Chúa Giêsu – đã thả lưới và đã kéo
lên bờ mẻ cá lạ lùng…Sau đó là câu chuyện giữa Đức Giêsu và các môn đệ bên đống
lửa bập bùng…với bánh và cá…trên bờ…Một câu chuyện mà người viết rất thích kể
đi kể lại vì ghi khá nhiều dấu ấn trong lòng người viết…Cũng chính trong câu
chuyện này, Chúa Giêsu – sau khi kiểm nhận mức độ tình yêu của người Tông Đồ
Trưởng trong anh em – đã trao phó : “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”
(Ga 21 , 17)…Ôm và cám ơn Đức Hồng Y Tagle…Sau khi Đức Hồng Y Tagle bước xuống,
người viết thấy Đức Thánh Cha nhìn đến
chiếc nhẫn “Ngư Phủ” mình vừa nhận…với một thoáng cảm xúc…Không
biết Ngài nghĩ gì khi nhìn chiếc nhẫn ấy ? Người viết cứ tưởng rằng chỉ một
mình mình cảm nhận giây phút thoáng qua ấy, nhưng trên mạng Xã Hội, đã có đôi
ba người có cùng một cảm nhận và một câu hỏi như vậy…Nghĩa là không biết Đức
Thánh Cha nghĩ gì khi nhìn chiếc nhẫn mình vừa nhận…Người viết cho rằng gánh
lấy cái “ÁCH” dành cho Phêrô trong hôm nay – thời của AI - và nói
lên sự gắn bó với sứ vụ của Phêrô qua
chiếc nhẫn “NGƯ PHỦ” đứng trước muôn vàn những “nhiệm mầu”
của tương lai là cả một hành trình của người được gọi và được chọn với sự dấn
thân bất kể những gì có thể xảy ra…
Tác giả của “Lời
Tâm Sự” trên kia đã thứ nhận:
Tôi đã khóc vì
bất ngờ…
Tôi đã khóc vì
biết rõ con người ấy là ai…
Là ai ?
Là người đã từng
đi bộ cả hai mươi cây số để dâng Thánh Lễ cho một cộng đoàn bị cô lập sau lở
đất…
Là người đã dùng
phần lớn đồng lương cá nhân để mua lương thực, thuốc men, vở và áo ấm cho trẻ
em nghèo…
Là người sẵn
sàng từ chối bữa ăn duy nhất trong ngày để dành phần đó cho bà mẹ trẻ mang thai
không có gì trong bụng…
Là người sẵn
sàng cúi xuống rửa chân cho người già, lau mặt cho những đứa trẻ bị sốt, và nắm chặt tay những người hấp hối
trong trại phong…
Trong suốt 12
năm từ ngày 13/03/2013 – 20/0/2025, dĩ
nhiên Đức Cố Giáo Hoàng Phanxicô đã có rất nhiều những thành quả lớn lao trong
công cuộc điều hành Giáo Hội cũng như phục vụ gia đình nhân loại - nhưng khi Ngài nằm xuống, người ta không nhắc
đến những thành quả ấy, bởi nó là đương nhiên của vai trò Vị được chọn để đứng
đầu Giáo Hội, nhưng người ta ca tụng và thán phục tinh thần khiêm nhượng, sự hạ
thấp bản thân, việc gần gũi với người nghèo, sự lo lắng cho con người bị bỏ lại
bên lề cả trong Giáo Hội lẫn bên ngoài xã hội…Người ta quan tâm đến đôi giày
mòn, cái quan tài gỗ đơn giản…và tấm bảng với hàng chữ FRANCIS ngắn gọn trên
phiến đá nắp hầm mộ…
Và – trong hôm
nay – nơi con người của Đức Lêô XIV, sau tất cả những Thông Điệp, những Tông
Huấn, những chuyến Tông Du mục vụ, những huấn dụ nơi này/nơi khác, những gặp
gỡ, trao đổi mang tính sứ vụ…là việc Ngài sống cách đơn giản, nhẹ nhàng cái “Là
AI ?” của mình với những bàn tay yếu ớt muốn được nắm lấy tay Ngài, với
những khốn cùng ở đây/ở đó có thể làm vấy bẩn manh áo dòng trắng Ngài mang trên
mình…
Chúng ta nghe
lại Thông Điệp từ Ngài :
Anh chị
em thân mến…
Tôi nói
với anh chị em, nhất là những ai không còn tin, không còn hy vọng, không còn
cầu nguyện, vì nghĩ rằng Thiên Chúa đã rời bỏ mình.
Với
những người đã quá mệt mỏi vì tai tiếng, vì quyền lực bị lạm dụng, vì sự im lặng
của một Giáo Hội đôi khi giống như cung điện hơn là mái nhà.
Tôi cũng
từng tức giận với Thiên Chúa.
Tôi cũng
đã thấy những người tốt phải chết, trẻ em đau khổ, ông bà khóc vì không có
thuốc men…
Và đúng
vậy… đã có những ngày tôi cầu nguyện mà chỉ nghe thấy tiếng vọng lại !!!
Nhưng
rồi tôi khám phá ra một điều:
Thiên
Chúa không la hét. Thiên Chúa thì thầm.
Và đôi
khi Ngài thì thầm từ bùn đất, từ nỗi đau, từ một người bà cho bạn ăn dù bà
không còn gì cả.
Tôi
không đến để trao cho anh chị em một đức tin hoàn hảo.
Tôi đến
để nói rằng đức tin là một hành trình với sỏi đá, vũng nước và những cái ôm bất
ngờ.
Tôi
không yêu cầu anh chị em phải tin hết mọi điều.
Tôi chỉ
xin anh chị em đừng đóng cửa tâm hồn mình lại.
Hãy cho
Thiên Chúa một cơ hội — Đấng đang chờ đợi anh chị em không chút phán xét.
Tôi chỉ
là một Linh mục đã thấy Thiên Chúa nơi nụ cười của một người
phụ nữ mất con… nhưng vẫn nấu ăn cho người khác.
Điều đó
đã thay đổi tôi.
Vậy nên
nếu anh chị em đang tan vỡ, nếu anh chị em không tin, nếu anh chị em mệt mỏi vì
những dối trá…Hãy cứ đến…với cơn
giận, với hoài nghi, với chiếc ba lô đầy bụi bẩn.
Ở đây
không ai đòi hỏi anh chị em có thẻ VIP cả.
Vì Giáo
Hội này, chừng nào tôi còn thở, sẽ luôn là mái nhà cho những ai không có chốn
nương thân, là chỗ nghỉ cho những ai mệt mỏi.
Thiên
Chúa không cần các chiến binh.
Ngài cần
những người anh em.
Và anh
chị em — đúng vậy, chính anh chị em…
là một
trong số đó — Robert
Prevost (Đức Giáo Hoàng Leo XIV)…
Tất cả không là
gì hết, nhưng lại làm nên những con người vĩ đại mang lại nhớ thương cho mọi
người – đặc biệt những con người bị bò rơi, bị lãng quên bên lể xã hội và ngay
cả ở bên lề hoặc ở ngoài Giáo Hội…
Xin Chúa gìn giữ
Ngài – người Cha mới của chúng con…Xin cho thế giới hôm nay, nhờ gương sáng của
Ngài, có thể một lần nữa nhận ra khuôn mặt thật của Đức Kitô qua đôi tay chai
sạn và những bước chân âm thầm giữa những miền đất bị lãng quên…
Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp