Partez
hérauts de la Bonne Nouvelle
Voici
le jour appelé par vos voeux
Rien
désormais n’enchaine votre zèle
Partez
– amis, que vous êtes heureux
Oh
! qu ‘ ils sont beaux , vos pieds missionnaires
Nous
les baisons avec un saint transport
Oh
! qu’ils son beaux sur ces lointaines terres
Où
règne l’erreur et la mort
Ai đó đã tạm dịch như thế này:
Ra
đi – hỡi những cánh chim loan báo Tin Mừng
Đây
là ngày đã từng ước nguyện !
Từ
nay không gì hãm lại được nhiệt huyết của bạn
Hãy
ra đi – hỡi người bạn hạnh phúc
Ôi
! Đẹp thay đôi bàn chân thừa sai
Chúng
tôi hân hoan hôn lên chúng
Ôi
! Những bàn chân đẹp khi bước đi trên miền đất xa xăm,
Nơi
sai lầm và chết chóc vẫn ngự trị…
Cha Joseph Auger – Cố Đoài (tiếp theo)
Vào khoảng cuồi năm 1890, có thể nói là toàn thể
các cộng đoàn Ki-tô hữu Tỉnh Khánh Hòa đã được tái thiết lập trong một tinh thần
hầu như không còn nghĩ nhiều và tiếc nuối thời vàng son thủa nào nữa, bởi hôm nay cũng
đã khá là phồn thịnh rồi…Gần ba trăm bà con tòng giáo có thể nói là đã lấp đầy
khoảng trống do thời bách hại gây nên. Bà con lương dân cảm nhận sức hút ngày
càng rõ nơi vị thừa sai cũng như Tôn Giáo mà ngài rao giảng…Cha Villaume viết :
“ Đây là thời điểm mà – theo dự toán của mọi người – thì Cha Auger sẽ gặt hái một
vụ mùa bội thu xứng với công sức ngài đã tiêu hao. Đức Giê-su Ki-tô, Chúa của
chúng ta – để có thể duy trì tình yêu và niềm tin nơi các tay thợ Tông Đồ của
Người – Người thường để cho người này được gặt hái kết quả mà người kia đã tận
lực gieo vãi, và cũng chính Chúa đã từng nhắn nhủ các môn đệ của Người về việc
Người sẽ cho các vị được hưởng nếm hạnh phúc thiên đàng – niềm vui mà không gì ở
trần gian u buồn này có thể sánh được – niềm vui của một tay thợ - vốn chỉ là dụng
cụ - để có thể cứu vớt các linh hồn…Và – tội nghiệp - rất sớm, người ta đã nhận
ra rằng vị Thừa sai trẻ đã mang nơi mình một mầm bệnh nghiêm trọng” …
“Mưu sự tại nhân – thành sự tại thiên” là câu nói cửa miệng khi con người đứng trước
sự bất thường vượt lên trên mọi tầm mức suy tưởng của mình…Và ngay cả trong
hoàn cảnh như thế…thì vị thừa sai trẻ cũng cho thấy một thái độ sống rất hào
khí của ngài…Nơi ngài cũng như nơi tất cả những con người không bận đầu về những
chuyện lặt vặt đồng thời lúc nào cũng căng đầy nhiệt huyết nên thường bỏ qua những
chi tiết này/ khác trong cuộc sống thường ngày, bởi họ cho rằng bản thân luôn
tràn trề sức mạnh để chịu đựng và vượt qua…Cũng vì thế mà vị thửa sai trẻ trung
của chúng ta đã không ngại ngần chuyện dầm mưa dãi nắng, lên đồi xuống lũng … để
thăm viếng bà con giáo dân, ăn uống ngủ nghỉ không bao nhiêu và cũng không điều
độ…Tình trạng thái quá trong công việc cùng với sự lơ là việc chăm sóc bản thân
cộng với những mỏi mệt của sứ vụ đã lặng lẽ gặm nhấm dần sức lực của vị thừa
sai trẻ đầy nhiệt huyết ấy…Dịp tháng năm, trở về sau cuộc thăm viếng Làng Sông,
căn bệnh viêm phế quản khởi phát cùng với những dấu chứng khác nữa ngày càng có
vẻ trầm trọng hơn. Đến tháng mười hai thì ngài có vẻ không chịu đựng nổi nữa.
Và – theo ý kiến của một vị bác sĩ – ngài đến bệnh viện Sài-gòn, ở đó, người ta
khuyên ngài nên trở về Pháp ngay…Đó là thời điểm đầu tháng ba năm 1891…Hít thở
bầu khí của quê hương dân tộc mình, nhất là khoảng không gian trong trẻo, tươi
mát của vùng đất chôn nhau cắt rốn như vậy đó, nhưng bệnh tình của ngài cũng chẳng
giảm bớt đi được bao nhiêu…Ngay ở những lần thăm khám đầu tiên thôi, các bác sĩ
đã cho biết là ngài đã nhiễm bệnh lao ở
giai đoạn cuối…Trong khi đó thì chỉ một mình ngài – phải, một mình ngài thôi –
vẫn còn
ảo tưởng về sức khỏe của mình…với hy vọng sẽ hoàn toàn qua khỏi ở lần
khám bệnh sau và sẽ có thể quay trở lại với anh em bằng hữu cũng như bà con
giáo dân mà ngài thường xuyên nhắc đến với nỗi niềm hạnh phúc…và chan chứa yêu
thương…
Một ngày nọ, ngài bảo rằng mấy ông thầy thuốc
vùng Auvergne này chẳng biết gì nhiều về bệnh tình của tôi, nên tôi rất muốn
lên Paris “để được các chuyên gia thăm
khám và họ sẽ giúp tôi mau lành cũng như sớm có thể lên đường trở lại với công
cuộc truyền giáo của mình”…Thế rồi - mặc dù sức khỏe rất yếu – ngài vẫn năn
nỉ và mọi người đành phải chiều theo ước muốn của ngài để đưa ngài ra ga xe lửa,
mua vé và dìu ngài lên toa tàu…Thế nhưng
đấy chính là lúc mà Quan Phòng của Thiên Chúa can thiệp…Ngài hoàn toàn kiệt lực
và mềm như cọng bún…Ông chú của ngài đã tận dụng ngay cơ hội này để - tuy có mệt
nhọc – nhưng cố gắng đưa ngài trở về nhà và đặt ngài trở lại trên chiếc giường
trong phòng ngài…Cha Quản xứ được mời đến để ban các bí tích cuối cùng cho ngài
cách sốt sắng trước sự chứng kiến của tất cả những người có mặt. Ngài không thể
rước Mình Thánh Chúa vì không nuốt được gì nữa…Sáng ngày hôm sau, Ngài trút hơi
thở cuối trong Chúa vào khoảng bảy giờ…Hôm đó là ngày mùng 4 / tháng 8…Ngày
mùng 5, khoàng mười lăm vị Linh mục đồng môn ngày trước cũng như bằng hữu đã cùng với gia đình ngài đưa tiễn
ngài đến khu vực dành cho gia đình trong nghĩa trang Giáo xứ của thành phố
Billom nhỏ bé – thành phố quê hương nơi ngài cất tiếng khóc đầu đời cách đây vỏn
vẹn 37 năm…
Khoảng một tháng sau thì tin ngài qua đời được
vùng Truyền Giáo Đông Nam Kỳ tiếp nhận…Cha Villaume, Cha Gamier và Cha Danguet
đã tổ chức Thánh Lễ cầu nguyện cho ngài ở Nha Trang, trong cộng đoàn của Cha
Auger trước đây…Quan chức người Pháp, đứng đầu là quan Công sứ, cũng như quan lại người Việt trong khu vực,
bà con giáo dân và một số đông bà con lương dân đều hiện diện trong Thánh Lễ ấy
với lòng thành kính và tâm tình ghi ơn…Nhân cơ hội này, mỗi người hầu như đều
muốn bày tỏ lòng biết ơn và yêu mến dành cho các vị thừa sai cũng như Hội Truyền
Giáo – Paris… đã xả thân cho công cuộc mở mang Nước Chúa và khai sáng bà con ở
những nơi các ngài đặt chân đến…
Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp chuyển dịch