Chúa Nhật 32 TN - B
Lịch sử Hoa Kỳ có ghi lại một câu chuyện rất đặc biệt liên quan đến nữ tỉ phú có
tên là Hetty Robinson. Bà có khả năng kiếm tiền dễ đến nỗi người ta gọi bà là
“phù thủy phố Wall”. Nhờ vào tài kiếm tiền thiên phú, bà đã trở thành một trong
những nữ tỉ phú giàu có nhất nước Mỹ hồi đầu thế kỷ 20, khi tuổi đời còn trẻ.
Tuy nhiên, bà cũng là một người keo kiệt nhất được biết đến thời bấy giờ. Bà đếm
từng xu một và dường như không bao giờ cho ai hay giúp đỡ ai một đồng nào. Bà
cũng không muốn tiêu tiền. Bà không mua nhà riêng mà chỉ ở nhà cho thuê bình dân,
vì không muốn trả tiền thuế nhà đất. Bà hầu như không mua sắm quần áo, và lúc
nào cũng chỉ mặc mỗi cái váy đầm dài màu đen. Bà tự tay giặt lấy, nhưng để tiết
kiệm xà bông, bà chỉ giặt phần gấu váy, tức phần tiếp xúc với nền đất. Các doanh
nhân khác thì có văn phòng riêng, còn bà thì không. Bà thường sử dụng cái bàn ở
nhà bank, nơi bà gởi tiền, để làm việc và ăn uống tại đó luôn. Thức ăn thường là
bánh mì săng-đúyt, đỡ mất công nấu nướng tốn kém
Khi con trai bà bị thương ở đầu gối, bà không muốn trả tiền cho bác sĩ, nên bà
đã đưa đến một bệnh viện từ thiện dành cho người nghèo. Không may bác sĩ biết bà
là một người giàu và đòi lấy tiền. Bà từ chối trả tiền và đưa con bà về. Sau đó
vết thương nơi đầu gối con trai bà bị nhiễm trùng và rồi các bác sĩ phải cưa
chân. Chưa hết, một lần kia, khi đến cửa hàng mua một chai sữa, bà đã cãi nhau
với nhân viên về giá cả. Và bà tức giận đến nỗi lên cơn và đột quỵ. Bà chết lãng
xẹt: chết vì một chai sữa, hay nói đúng hơn là chính tính keo kiệt đã giết hại
bà.
Khi được thừa kế gia tài bà ta để lại, cậu con trai đã trả thù đời bằng cách
phung phí hết vào việc ăn chơi tiệc tùng và mua sắm xa hoa, thậm chí cái bô tiểu
cũng được cậu ta nạm kim cương. Đó cũng là một hình thức trả thù cho sự tật
nguyền mà mình phải chịu vì sự keo kiệt của bà mẹ. (x. Giáo trình "Life Lines",
Tom Hutchinson, trang 26).
Nếu trên cõi đời này, có những con người keo kiệt và bần tiện như bà tỉ phú
Hetty Robinson, thì cũng có những con người có tấm lòng hào hiệp và quảng đại
như tấm lòng hai bà góa được nhắc đến trong Phụng vụ Lời Chúa, Chúa Nhật 32
Thường Niên hôm nay.
Bà goá thứ nhất quê ở Sarepta, sống vào thời ngôn sứ Êlia. Bà goá thứ hai mà Tin
Mừng nói đến quê ở Palestina, sống vào thời Chúa Giêsu. Cả hai có điểm nào giống
nhau? Cả hai đều là bà góa nghèo, nghèo của cải vật chất, nhưng lại giàu tấm
lòng.
Bà goá quê ở Sarepta thì quảng đại cho đi cái bánh cuối cùng, giúp ngôn sứ Êlia
thoát khỏi cơn đói, dù mẹ con bà đang đối mặt với nạn đói lớn trong vùng và cái
chết đang kề cận. Còn bà goá trong Tin Mừng thì có lòng quảng đại dâng hiến tất
cả những gì bà có với niềm tín thác tuyệt đối. Dù số tiền của bà bỏ vào thùng
tiền Đền Thờ chỉ là 2 đồng tiền kẽm, trị giá bằng ¼ xu của người Rôma thời bấy
giờ, tương đương với ¼ giá trị một ngày công. Nếu tính một ngày công bây giờ là
200 ngàn đồng, thì ¼ ngày công là 50 ngàn đồng. Năm mươi ngàn chẳng là bao,
nhưng đó là tất cả những gì bà có để nuôi sống mình. Chúa Giêsu đã khen ngợi bà
và đưa bà ra làm gương cho các môn đệ của Ngài.
- Thứ nhất là gương về lòng quảng đại hiến dâng.
Bà bỏ tiền dâng hiến vào Đền thờ không phải để khoe khoang hay phô trương như
nhiều người do thái giàu có khác. Thực sự bà nghèo, nên không buộc phải dâng
tiền bạc vào Đền Thờ. Nhưng vì bà có một lòng quảng đại lớn lao. Bà vẫn thích
sống cho đi. Bà không đợi đến lúc có dư ra năm, bảy đồng mới dâng cúng một đồng.
Bà dâng ngay tất cả những gì mình có trong lúc cùng cực nhất, bế tắc nhất.
Vì bà ý thức cuộc sống là nhận lãnh thì cũng phải biết cho đi, nên bà sẵn sàng
cho đi cả sự sống của mình.
- Thứ hai là gương về lòng tín thác vào Thiên Chúa.
Không biết bà có con cháu hay không. Thánh sử Maccô chỉ nói rằng bà là một góa
phụ nghèo. Tức là bà đã mất chồng và nghèo túng. Góa mà nghèo nữa, nên nếu có
con cháu thì có lẽ bà cũng không được nhờ cậy gì. Tuy nhiên, bà là người rất
giàu về niềm tín thác. Bà tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa là người cha tốt
lành của bà. Thiên Chúa là điểm tựa của bà, và bà tin tưởng rằng Ngài sẽ không
bỏ mặc bà. Vì thế bà sẵn sàng dâng hiến cho Thiên Chúa một cách quảng đại.
Phần chúng ta, những người xưng mình là Kitô hữu thì sao? Thực tế ta thấy có
những người giáo dân không bao giờ dâng cúng cho công việc chung một đồng nào.
Lấy lý do: người ta dâng tiền triệu này triệu kia, còn tôi dâng tiền trăm, tiền
chục, khó coi quá! Thiên Chúa không đo không lường số lượng của dâng, ít hay
nhiều, mà Ngài nhìn chỉ nhìn vào tấm lòng của người dâng. Quảng đại hay keo kiệt.
Rồi cũng có những người không hề mở hầu bao để giúp đỡ cho những kẻ hoạn nạn một
cắc nào, viện cớ: tôi còn chưa lo được cho tôi, gia đình tôi, nói gì đến chuyện
lo cho người khác.
Và rồi cũng có những người né tránh để khỏi giúp đỡ tha nhân bằng câu nói: “Hãy
chờ khi nào làm ăn khá hơn, tôi sẽ chia sẻ cho ông cho bà, cho anh cho chị…”. Và
sự chờ đợi ấy sẽ kéo dài mỏi mòn không biết đến bao giờ làm ăn khá hơn để giúp
đỡ, để sẻ chia. Nói chung, người ta có thể nêu ra cả ngàn lý do để biện minh cho
thái độ dửng dưng, vô cảm, vô tâm, không muốn giúp đỡ anh chị em đồng loại.
Thực tế, không ai nghèo đến độ không có gì để dâng hay để cho. Và những ai tự ti
là mình không có gì để dâng hiến, hay để cho đi là những người có tội với mình
và có tội với Chúa. Nếu không có của cải tiền bạc để cho thì cho đi tấm lòng.
Cho đi tấm lòng được thể hiện qua một ánh mắt cảm thông, một nụ cười khích lệ,
hay một lời nói ủi an. Cho đi tấm lòng còn được thể hiện qua sự hy sinh một phần
thời giờ, sức khoẻ và khả năng để hiện diện, để phục vụ tha nhân, v.v…
Cái cho lớn hơn cả vẫn là cho đi tấm lòng, cho đi chính mình. Chỉ với hai đồng
tiền kẽm vốn chẳng có giá trị gì đối với những người giàu, nhưng lại là lớn lao
trước mặt Thiên Chúa vì đồng tiền đó được gói trong một “tấm lòng vàng”. Bởi đó
người ta thường nói rằng cho tiền cho bạc là cho ít, cho đi tấm lòng mới là cho
nhiều; hay “của ít mà lòng nhiều” vẫn có giá trị hơn là “của nhiều mà lòng ít,
hoặc là không có tí lòng nào”.
Nếu chúng ta biết quảng đại dâng hiến, quảng đại cho đi thì sẽ được Thiên Chúa
cho lại. Thiên Chúa cho lại có khi gấp trăm gấp ngàn lần. Chính Chúa Giêsu đã
khẳng định điều này:
“Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ dùng đấu hảo hạng đã
dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào thì
Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.
(Lc 6,38). Ta đang đong cho Chúa và cho anh em bằng đấu nào: đấu hẹp hòi keo
kiệt hay đấu rộng lượng bao la?
Thực tế cũng cho ta thấy có những người chỉ biết nhận mà không bao giờ biết cho.
Hoặc giả như có cho đi nữa thì cho kiểu bố thí, hoặc cho kiểu bất đắc dĩ. Chúa
ban cho ta 10 đồng, ta dâng lại cho Chúa 1 đồng, hay cho anh chị em vài đồng mà
thấy xót xa vô cùng. Thế đấy! Chúa đã quảng đại với ta, vậy mà ta vẫn thường
tính toán chi li với Chúa.
Ta “quảng đại với Chúa” bằng cách nào? Bằng cách sẵn sàng đóng góp một cách hào
phóng cho những công việc chung của Giáo hội, của giáo phận, hay của giáo xứ.
Nhất là luôn sẵn lòng giúp đỡ cho anh chị em của mình, đặc biệt là những người
nghèo khổ túng thiếu, hay những người đang gặp hoạn nạn tai ương.
Ước gì trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chúng ta luôn có thái độ sống quảng
đại để hiến dâng, biết cho đi với tất cả lòng yêu mến và tín thác trọn vẹn như
bà goá nghèo trong Tin Mừng hôm nay. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long