CÔNG GIÁO VIỆT NAM VÀ DI SẢN HÁN NÔM
●Francis Assisi Lê Đình Bảng.
1. Xưa nay, người ta vẫn có định kiến - nếu không
muốn nói là cường điệu - rằng Công giáo Việt Nam làm gì có Hán Nôm? Cũng vậy, là một tôn giáo của phương Tây, du nhập
từ biên cương ngoại lai nào xa lắc xa lơ, Công giáo Việt Nam làm sao sở hữu được kho tàng sách
vở, tư liệu viết bằng Hán Nôm? Thậm chí, có người còn kết án là Công giáo muốn tiêu diệt truyền thống văn hoá, khi khai sinh và cổ xuý phát triển chữ
Quốc ngữ? Hoặc giả, có chăng, chỉ là những khái niệm vá víu, mơ hồ, vay mượn, cùng lắm, chỉ là vài ba quyển sách nghèo nàn về
đạo, về giáo lý; đọc lên, thuần là kinh kệ, phép tắc, lễ nghi, tế tự của nhà thờ nhà thánh; do cha cố ghi chép bằng thứ Quốc ngữ thô mộc
mới ra lò, còn phôi thai, hoặc đôi khi pha lẫn ít nhiều ngoại văn rất xa lạ (La Tinh, Bồ, Pháp), để sử dụng tạm thời trong việc hành đạo. Cụ thể, là Phép Giảng Tám Ngày, quyển sách Giáo lý Công giáo đầu tiên
(1651) dành cho người Việt đặng vào đạo.(1) Sự thật không hề đơn giản và khô khốc
đến thế đâu. Mà một khi đã nói về kinh kệ thì chẳng cứ gì Công giáo. Đạo nào cũng thế thôi, nghĩa là luôn sẵn có đấy một số ngôn ngữ
thuộc về một phạm trù rất riêng, trong khuôn khổ kinh kệ. Mà kinh kệ thì thiên kinh vạn quyển, bát ngát mênh mông, kể sao cho xuể. Bởi thế, khi không, tại sao miệng đời có câu “Kinh nhà đạo, gạo nhà chùa.”? Cứ lấy trường hợp của kinh sách nhà Phật ở nước ta làm thí dụ. Mấy ngàn năm
vào Việt Nam rồi - thậm chí, đã được triều đại nhà Lý tôn làm quốc giáo - xin
hỏi chứ, được bao nhiêu người con Phật miệng khấn tay vái mà lòng trí hiểu được
ngọn ngành ý nghĩa thâm sâu của các kinh sách ghi chép bằng đủ thứ chữ: Phạn,
Pali, Tây Tạng, Hán, Mông Cổ, Mãn Châu, Khotaese, Nhật Bản, Triều Tiên...?
Riêng bản thân kẻ viết bài này, đã nhiều phen có cảm giác rơi vào cái mê cung
mịt mù không lối ra ấy. Thế thì, ba cái chữ nghĩa... lẻ tẻ La Tinh, Bồ hoặc
Pháp ngữ tản mạn gặp thấy đó đây còn sót lại nơi các trang sách kinh của Công
giáo Việt Nam có gì phải ca cẩm ầm ĩ cho lớn chuyện? Kinh sách ấy vẫn tồn tại,
vẫn được lưu truyền và từng bước được cập nhật, trở thành “của nuôi linh
hồn” bao thế hệ người bên đạo. Đặc biệt, kinh qua những thời buổi cấm
cách, những cơn chinh chiến, gió bụi, những lúc khốn cùng, cô đơn, cô độc,
tuyệt vọng, không biết cậy dựa vào đâu.
Trở lại chuyện Di sản Hán Nôm, cụ
thể là mảng kinh sách Hán Nôm của Công giáo Việt Nam. Nói cho ra lẽ hẳn
hoi, thì trước và cùng trong thời điểm đầu nguồn ấy (1632-1656), còn phải nhắc
tới giáo sĩ Girolamo Majorica (1591-1656) cùng tập thể của ông, với cả một tàng
kinh các bao gồm các kinh truyện Công giáo đồ sộ, công phu bằng Hán Nôm.(2)
Di sản có một không hai ấy, đến nay, vẫn được trân trọng như là một trong
những chứng từ đáng tin cậy nhất, căn cơ nhất đối với những ai muốn thật lòng
tìm về nguồn cội ngôn ngữ văn tự còn tinh ròng của ta ở buổi giao thời Hán Nôm
và Quốc ngữ thế kỷ XVII. Nó còn tươi nguyên cái chất tinh ròng và cả cái hơi ấm
từ nét chữ, bút tích của người xưa. Không bị sửa chữa, thêm bớt, đẽo gọt, xu
thời của một phả hệ, triều đại nào.
Nếu cứ như luận điệu máy móc trên, có thể
hiểu là Công giáo Việt Nam đã cách ly, đã đoạn tuyệt, đã hoàn toàn chia cắt ra
khỏi cái gốc rễ văn hoá truyền thống của dân tộc. Một cách tự nhiên hơn, người
ngoài Công giáo có thể đã nghĩ và có quyền nghĩ như thế, mặc dầu xem ra có vẻ
nóng vội, một chiều. Trong khi ấy, lại có ý kiến ngược lại, cho rằng, sở dĩ nảy
sinh ngộ nhận đáng tiếc trên, một phần vì người Công giáo chúng ta - kể cả trí
thức, khoa bảng - chẳng mấy ai quan tâm đến việc tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu,
lưu giữ những sách vở Hán Nôm? Nói chi đến việc phát huy, giới thiệu và phổ
biến rộng rãi ra bên ngoài xã hội. Thành thử ra, Công giáo Việt Nam, trước sau,
chỉ như một người xa lạ, một ốc đảo biệt lập, lạc loài ngay trên quê hương
mình, giữa đồng bào ruột thịt và
tiếng nói giàu âm điệu của mình?
Thực tế là, từ khi đạo Chúa vào miền đất
thân yêu này (1533), người Công giáo Việt Nam đã luôn sử dụng chữ Hán và đặc
biệt là chữ Nôm trong việc diễn tả đức tin để truyền đạo, vào đạo, theo đạo và
sống đạo. Rõ rệt nhất là trong kinh sách lễ nhạc, phụng tự và cả trong cuộc mưu
sinh, đồng áng nắng mưa lam lũ, nhọc nhằn ngày thường, y như đồng bào bà con ta
vậy. Cái kho báu tinh thần truyền thống chung ấy, tuy có lúc không lộ hẳn ra
thành văn bản, nhưng vẫn âm thầm sống động trong tâm thức, vẫn hun đức tin lòng
đạo những người con Chúa trải qua những thời điểm lịch sử biến động, nhiễu
nhương và đẫm máu nhất: Từ Tây Sơn (1788-1802) đến các triều vua nhà Nguyễn, như
Minh Mạng, Thiệu Trị , đặc biệt Tự Đức (1848) và cơn bão lửa Văn Thân (1885)
với lệnh “Bình Tây, sát tả” thật
khủng khiếp. Họ sống chết với cái lẽ đạo thuần thành “Sống cái đã, rồi mới
nói chuyện triết lý - Primum vivere,deinde philosaphare”. Thậm chí, mãi
đến năm 1888 ở Nam Kỳ và 1910 trên quy mô toàn quốc, khi chính quyền thuộc địa
- bảo hộ Pháp ban hành lệnh bãi bỏ Hán Nôm cả trong khoa cử lẫn hành chính sự
vụ thì Giáo hội Công giáo Việt Nam vẫn một phép một mực gìn giữ nề nếp cũ, vẫn
tạo điều kiện cho việc biên soạn sách vở, mở trường lớp, đào tạo thầy dạy và
khuyến khích học chữ Hán và chữ Nôm. Đâu đâu nơi nhà thờ nhà xứ nhà dòng, hội
quán, cổng chào, đất thánh, cũng đọc thấy chữ nghĩa, hoạ tiết, hoa văn, bài trí
theo mô típ hình tượng vuông thành sắc cạnh của Hán Nôm. Còn chuyện in ấn, xuất
bản và phát hành sách vở, văn bài, giáo khoa của nhà in Công giáo thì trăm hoa
đua nở, mùa nào thức nấy. Nào, nhà in Nazareth Hồng Kong (của Hội Thừa Sai
Truyền Giáo Paris M.E.P.), Kẻ Sở(Hà Nội), Kẻ Sặt (Hải Phòng), Phú Nhai Đường (Bùi
Chu), Ninh Phú (Phát Diệm). Nào, nhà in Tân Định (Sài gòn), Huế, Làng Sông, Qui
Nhơn, Kontum v.v. luôn đầy ắp những đầu sách đủ thể loại, được biên soạn bằng
Hán, Nôm, Pháp và Quốc ngữ. Trong đó, không ít sách đặc khảo về văn phạm, ngữ
pháp hoặc dạy cách phân tích, giảng giải, thực hành các thể loại bài bản, biền
văn, tản văn, chương khúc, thi phú Hán Nôm, Quốc ngữ. Nếu xét riêng về thời
gian và chủ đích biên tập, có thể khẳng định rằng toàn bộ thư mục mang tính
giáo khoa và nghiên cứu này (chưa kể các từ điển) đã xuất hiện và đóng góp sớm
hơn, thiết thực hơn các tác giả biên soạn cùng loại ở bên ngoài xã hội có đến
cả vài ba chục năm.(3)
Hơn nữa, đọc Thư Chung (Thư Luân Lưu/
Thư Mục Vụ) của các Giám mục F.Pallu, P.A.Retord Liêu, C.H.Geantet Khiêm, J.S.Theurel,
P.F.Puginier Phước, P.M.Gendreau Đông thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài (Hà
Nội,1679-1924); của các Giám muc Munagorri Trung, Dom.Hồ Ngọc Cẩn thuộc giáo
phận Trung Đàng Ngoài (Bùi Chu,1848-1948), ta nhận ra tấm lòng tha thiết ấy với
Hán Nôm của Giáo hội Công giáo Việt Nam, qua nhắn nhủ ân cần của các chủ
chiên với cộng đoàn. Chẳng nói đâu xa. Ngay những năm tháng tuổi trẻ của chúng
tôi ở các nhà thờ xứ đạo đồng bằng Bắc bộ - đâu, khoảng 1940-1953 gì đó -
các cậu ở Nhà Đức Chúa Trời, các chú ở trường La Tinh (Tiểu chủng viện), có khi
cả đến các Dì Phước (nữ tu) vẫn còn duy trì lề luật, thói quen đọc và suy gẫm
theo các sách thiêng liêng bằng Hán Nôm trong nhà thờ,trong giờ huấn đức,tuần
cấm phòng (tĩnh tâm) và cả ở nhà trường, nhà cơm nữa. Đến nay, chúng tôi còn
nhớ rõ từng câu,từng chữ và từng cung giọng bổng trầm của từng loại kinh sách
ấy.(4)Tuy nhiên, chẳng hiểu vì lý do gì, dư luận nói chung và riêng
giới viết văn học sử Việt Nam vẫn giữ một thái đội e dè, tránh né,gần như là dị
ứng, không tha thiết mặn mòi gì bao nhiêu. Điều đáng tiếc trên, bản thân kẻ
viết bài này đã hơn một lần nhắc tới đó đây trên mặt báo.
2. Nói về giá trị lịch sử, cũng như mục đích truyền giáo thuần tuý
của di sản văn học này, bằng thực tế nghiên cứu và tiếp cận tại chỗ trong các
thư viện Công giáo ở châu Âu, Linh mục - Giáo sư Thanh Lãng đã đúc kết: “Khoảng
thời gian từ 1632 đến 1656, chữ Quốc ngữ bằng mẫu tự La Tinh đã có cơ sở
vững chắc. Tuy vậy, thứ chữ này từ đầu, trên lý thuyết cũng như trong thực tế, chẳng bao giờ được coi là phương tiện để
tiêu diệt chữ Hán,chữ Nôm, hòng cô lập cái cộng đồng nhỏ nhoi người Công giáo với cộng đồng dân
tộc,như có người từng nghĩ như vậy...”(5)
Để khẳng định lập luận trên,tác
giả Bản Lược Đồ Văn Học Sử Việt Nam đã trưng dẫn những con số biết nói: “Số
lượng sách vở biên soạn bằng quốc ngữ mẫu tự La Tinh chỉ có khoảng 700
trang. Ngược lại, những sách vở biên soạn bằng chữ Nôm nhiều hơn gấp 6 lần, tức
lên tới 4200 trang, 1.200.000 chữ. Đây là một tài liệu vô cùng quý báu đối với
nhà làm lịch sử tiếng Việt muốn tìm hiểu về chữ Nôm được xuất hiện ở thế
kỷ XVII...(6)
Cũng theo Thanh Lãng, không chỉ là kinh
sách và truyện vãn nhà đạo, công trình của tập thể Majorica còn có một giá trị
về mặt lịch sử ngôn ngữ, so với các tác phẩm cùng thể loại: “Ở ngoài xã
hội,cho đến thế kỷ XVII thì những công trình biên soạn bằng chữ Nôm, kể ra đã
có nhiều, như Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập của Hội
Tao Đàn; như thơ văn quốc âm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, của Nguyễn Hãng, Lê Đức
Mao, Đào Duy Từ... Nhưng khốn nỗi,là tất cả kho tàng chữ Nôm đó không có nơi
nào còn cất giữ được những bản văn nguyên thủy,mà hầu hết chỉ là những bản sao
chép lại từ các thế kỷ sau, nhất là sao chép từ thời Tự Đức, bằng chữ Nôm của
thời vua Tự Đức. Còn như các bản văn Nôm (của Majorica) có đặc thù là các bản
văn Nôm đều là các bản văn chép tay của người thế kỷ XVII, còn được cất giữ ở
tình trạng nguyên bản, chưa hề có bàn tay nào tra vào để sửa chữa.”(7)
Cùng một đề tài trên. Còn nhớ những ngày
sôi nổi,hào hứng với cuộc “Toạ đàm
về Văn hoá Công giáo Việt Nam” - do Uỷ Ban Giáo Dân trực thuộc Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam tổ chức tại Toà Tổng Giám mục Huế, 10.2000. Cùng với phân
tích của các diễn giả Đỗ Quang Chính, Phạm Đình Khiêm, Thiện Cẩm, Vũ Văn Kính, Nguyễn
Khắc Xuyên, linh mục Nguyễn Hưng đã đưa ra một nhận định về tính dự báo của văn
học như sau: “Trọn bộ gồm 4.200trang, 1.200.000 chữ, tất cả đều viết tay, được
đưa sang châu Âu từ thế Kỷ XVII, không bị chỉnh sửa... Nội dung ghi chép các
Kinh nguyện, bài suy gẫm, các ngày lễ trọng được biên tập từ 1634. Đặc biệt, mảng
Truyện ký là những chương trường thiên viết về 500 vị thánh hoặc các nhân vật
Đông Tây kim cổ. Bằng một thể văn mộc mạc,dân gian, nhưng không kém phần hấp
dẫn. Mỗi truyện là một đoản thiên, một tác phẩm,nghe hoặc đọc lên, na ná như “Tê-lê-mác
phiêu lưu ký” hoặc truyện Phật Bà Quan Âm Thị Kính,truyện gái giả trai sống
chung rất đạo hạnh trong những cộng đoàn tu trì...”(8)
Để thêm phần đa dạng và khách quan,mời
độc giả tham khảo ý kiến sau đây của Maurice Durand, nhà ngôn ngữ học người
Pháp: “Mảng tư liệu chữ Nôm của G.Majorica vừa giới thiệu, thông tin những
nội dung hết sức phong phú về mặt xã hội học, triết học, nhân văn học; lại vừa
hé mở một kho tư liệu vô giá về ngôn ngữ học. Một thứ chữ Nôm nguyên tuyền, chưa
bị Tự Đức san định lại (như Ông đã làm đối với hầu hết các tác phẩm văn học và
sử học) mà hậu quả là các văn bản đã bị chỉnh sửa theo ý vua, chứ không còn
nguyên trạng ban đầu nữa.(9)
C h ú t h í c h:
(1) Alexandre De Rhodes, Phép Giảng Tám Ngày (Cathechismus in Octo Dies,La Tinh và Quốc
ngữ). Bộ Truyền Giáo xuất bản ,Roma, 1651. Năm 1943, tại Paris có bản Pháp ngữ của H.Chappoulie. Năm 1958, tại trường Đại học Gregoriana, Roma, nhạc sĩ-nhà nghiên cứu Giacôbê Nguyễn
Khắc Xuyên (1923-2005) đã bảo vệ xuất sắc Luận án Tiến sĩ “Le Cathéchisme du Père Alexandre De
Rhodes, 1651”. Năm 1961 tại Sài gòn, nhóm nhà văn Tinh
Việt Văn Đoàn đã công bố bản Việt ngữ. Và cuối cùng, năm 1994 tại Sài gòn, Phép
Giảng Tám Ngày, Việt ngữ (có chú giải hoàn chỉnh) của Tủ Sách Đại
Kết phát hành. Như thế, Phép Giảng Tám Ngày của Đắc Lộ đã đi qua một chặng
đường dài 343 năm.
(2) Theo nghiên cứu của linh mục- giáo sư
Thanh Lãng trên đặc san Đại Học Sư Phạm Huế, số 1, tr.11, G.Majorica
viết rất nhiều sách, cả vận văn lẫn tản văn, trên dưới 60 tác phẩm. Phải chăng,
đây là một kho tàng mà giáo hội luôn bảo trọng,hiện còn lưu giữ tại Thư viện
Quốc gia, Paris. Được biết, sau khi ông qua đời (1656) thì tập thể của ông vẫn
tiếp tục phần còn lại của công trình này.
(3) Ngoài các sách tìm hiểu,hướng dẫn ,thực hành
về Văn phạm, Ngữ pháp và thi phú Việt Nam do các giáo sĩ phương Tây in ấn lưu
hành trong nội bộ các cộng đoàn từ 1625 đến 1838, xin kể ra đây mấy quyển
sách thuộc loại này của các tác giả khác như: Thi Phú Nhập Môn của Hồ Ngọc Cẩn (1913); Về Cách Làm Tuồng của
J.Lê Văn Đức (1917); Văn Chương Thi Phú An nam của Hồ Ngọc Cẩn (1919);
Vần Quốc Ngữ (1920); Hán Tự Quy Giản của Hồ Ngọc Cẩn (1923); Văn
Chương Giáo Thức (1924); Văn Khế - Đơn Từ (1925); Hán Việt Thường
Đàm (1927); Thi Ca vãn Phú (1934); Mẹo Tiếng An Nam của
Alexis Tống Viết Toại (1935) và của Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại; Sảng Đình Nguyễn
Văn Thích...
(4) Có thể lược kể vài ba quyển sách tiêu
biểu: Hạnh Các Thánh; Sách Truyện Các Thánh; Sử Ký Hội Thánh; Sấm Truyền Ca;
Tứ Mạt Ca; Sử Ký Địa Phận Trung; Truyện Vãn A- lê- Xù; I-Nê Tử Đạo Vãn; Thiên
Chúa Thánh Giáo Khải Mông; Sách Gương Phúc; Sách Dạy Tập Đi Đàng Nhân Đức Lọn
Lành; Tập Dụng Thần Công; Sách Nguyện Ngắm; Sách Tháng Đức Bà Rosa; Lề Luật Nhà
Đức Chúa Giời; Lề Luật Nhà Mụ v.v.
(5),(6) và(7) Trích từ Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam/ Biểu Nhất Lãm Văn Học Cận Đại Việt
Nam; Khởi Thảo Văn Học Sử Việt Nam...của Linh mục- Giáo sư (1924-
1988). Tiến sĩ Văn chương tại Đại học Fribourg, Thuỵ Sĩ với Luận án"Apport
du Francãis dans la Littérature Vietnamienne" 1961; Giáo sư Đại
học Văn Khoa Sài gòn, Huế; Trưởng Ban Văn học chữ Nôm, Đại học Văn Khoa Sài
gòn; Uỷ Viên Ban Điển Chế Văn Tự Quốc gia; Chủ Tịch Trung Tâm Văn Bút Việt Nam;
Sáng lập viên Nhóm Nghiên Cứu Hán Nôm,gồm có: Lê Ngọc Trụ, Vũ Văn Kính; Nguyễn
Hưng, Đỗ Quang Chính, Hoàng Xuân Việt...
(8) Linh mục Nguyễn Hưng (1927-2009), tiến
sĩ Ngôn Ngữ học tại Đại học Sorbonne, Paris, 1971 với Luận án"Etude
Phonologique des tons Vietnammiens"; Uỷ viên Nhóm Nghiên Cứu Hán Nôm; khởi xướng Thư Mục Hán Nôm Công Giáo Việt Nam; chủ
trì công trình biên tập Từ Điển
Hán Nôm Công Giáo Việt Nam; Giáo sư Đại học Văn Khoa Sài gòn, Đà
Lạt.
(9). Nhà Ngôn ngữ học Pháp Việt(1914-1966)
nổi tiếng với Image Populaire Vietnamienne; L'Oeuvre de la poetesse Vietnamienne.
Tác giả:
Francis Assisi Lê Đình Bảng
|