HIỆN TƯỢNG LỤC BÁT TRONG THI CA VIỆT NAM
Các nhà nghiên cứu về Việt Nam học, về
văn hóa Việt Nam đã có một tiếng nói chung khi đưa ra nhận định khá
lý thú này: “Việt Nam là đất nước của thi ca”. Có nghĩa, bẩm sinh người Việt mình
đã là thi sĩ (Natus poetà). Một nhận định khác có vẻ căn cơ hơn: “Văn
hóa gốc nông nghiệp trọng âm, trọng tình cảm, tất yếu có khuynh
hướng thiên về thơ. Văn hóa gốc du mục trọng dương, trọng lý trí, tất
yếu dẫn đến khuynh hướng thiên về văn xuôi”. Thống kê trên hai tập
Từ Điển Văn Học
cho thấy, trong 198 mục từ tác phẩm văn học phương Tây thì có 43 thơ
và 115 văn xuôi (tỷ lệ văn xuôi 78,3%). Còn trong 95 mục từ tác phẩm
văn học Việt Nam thì đã có tới 69 thơ và 26 văn xuôi (tỷ lệ thơ 72,6%).
Nói một cách khác, thi ca đã bao
trùm, phủ bóng lên dòng văn học Việt Nam, từ thể loại dân gian truyền khẩu cho đến lịch triều bác học
thành văn. Đại để là các trường hợp: Trê
Cóc, Trinh Thử, Nhị Độ Mai, Bần Nữ Thán, Nữ Tú Tài, Bích Câu Kỳ Ngộ, Ngọa
Long Cương Vãn, Tư Dung Vãn, Tự Tình Khúc, Ai Tư Vãn, Hoa Tiên Truyện,
Mai Đình Mộng Ký, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm, Quan Âm Thị Kính, Kim
Thạch Kỳ Duyên, Sơ Kính Tân Trang, Đoạn Trường Tân Thanh, Lục Vân Tiên…
Thi ca cũng đã chiếm phần chủ lực trong
sự nghiệp sáng tác sau này của các bậc danh gia như Nguyễn Công Trứ,
Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Tản
Đà… Kể cả
một thế hệ thi nhân tài hoa của phong trào Thơ Mới (1932-1945). Cho đến
tận ngày nay thì bao la, không kể xiết… Vẫn cứ là sự phủ bóng của lục bát, mặc
dầu nhịp sống càng ngày càng vỡ bờ theo xu hướng đô thị-công nghiệp hóa.
Đây cũng là lý do đã thu hút sự chú ý đặc biệt của các nhà truyền giáo trong quá
trình học ăn-học nói-học gói-học mở để rao giảng đạo Chúa cho đất nước-dân tộc
Việt Nam đáng yêu này. Thi ca có sức chuyển tải và được tiếp nhận
ra sao? Không thể rao giảng Tin Mừng bằng chính luận khô khan, tràng
giang đại hải đối với một dân tộc thiên về cảm tính, lại sính thi ca
như dân tộc Việt Nam. Việc biên soạn kinh sách, việc diễn tả đức tin
lòng đạo phải dựa trên cơ sở ngôn ngữ, hình tượng, về luật bằng
trắc, đối đáp của khoa tu từ học. Tắt một lời, là thả lời Chúa
trôi trên dòng chảy thi ca và âm nhạc, đến với mọi người.
Liệu có cường điệu và cực đoan chăng, khi
nói rằng con đường gần nhất, tuyệt vời nhất để đến với Chúa là con
đường thi ca? Thơ là đạo, đạo là đường, là đời Chúa, đời người, đời
ta. Đạo là lời Thiên Chúa mặc lấy xác phàm ở giữa chúng ta.
Từ ngàn xưa, lời Chúa – bằng con đường thi ca – đã được các bậc
thánh nhân, tiên hiền đồng cảm đồng điệu. Từ David với hàng trăm ca
khúc bất tận là Thánh Vịnh, hiểu theo nghĩa Thánh Vịnh là thi ca tôn giáo, nhằm diễn tả tâm tình của
người cầu nguyện. Từ hình tượng bồ câu bé nhỏ – người bạn tình
trong Diễm Tình Ca Cựu Ước, Kinh
Nguyện của Phanxicô Assisi cho đến Những
Ca Khúc Tâm Linh rực lửa tình yêu của Gioan Thánh Giá, Truyện Một Tâm Hồn ngây ngất của
Têrêsa Hài Đồng…Tất cả là một chuỗi dài, một chùm sao băng thi ca
giăng mắc đất trời. Rất thánh mà cũng rất người. Rất trọng vọng,
cao sang mà cũng rất lãng mạn, huê tình. Cũng vậy, đạo Chúa vào
Việt Nam bằng con đường thi ca. Hẳn chúng ta còn nhớ, ngày mùng
2-7-1627, giáo sĩ Đắc Lộ vào phủ chúa Trịnh Tráng. Khuôn mặt, cung
cách để lại ấn tượng sâu xa nhất, đối với ông, là một trang quốc
sắc thiên hương: Bà Catarina, em gái của Chúa (đã chịu phép rửa tội)
được mô tả là rất thông thạo chữ Hán, giỏi thi phú. Con gái bà cũng
là Catarina đã diễn ca (8000 câu thơ lục bát) toàn bộ Cựu Ước, Tân
Ước. Theo Đắc Lộ, tập thơ
này rất hay, rất có ích, vì không những giáo dân ngâm nga trong nhà,
nơi phố chợ cũng như thôn quê, mà cả lương dân khi ca hát những lời thơ
dịu dàng ấy thì cũng học biết được ít nhiều về mầu nhiệm chân lý
đức tin. Đúng là đất kinh kỳ ngàn năm văn vật. Ngay buổi hừng đông
đến với Tin Mừng đã được diễn ra trong khung cảnh của một thi đàn.
Từ ấy, đi suốt dặm dài đạo Chúa, ở từng vùng miền, ở từng vụ
việc, đã xuất hiện khá nhiều tác phẩm thi ca hữu danh, khuyết danh
hoặc vô danh, bằng đủ các thể loại (tam tự, tứ tự, lục bát, thất
ngôn, song thất, phức hợp…) Từ thầy giảng Phanxicô (Cảm Tạ Niệm Từ), thầy cả Lữ-Y Đoan (Sấm Truyền Ca với 5230 câu lục bát), Inê Tử Đạo Vãn với 563 câu lục bát, Truyện Alêxù (bản Đàng Ngoài, bản Đàng Trong), Giuse Đặng Đức
Tuấn (Việt Nam Giáo sử Diễn Ca
với 670 câu song thất; Lâm Nạn Phụng
Quốc Hành với 566 câu phức hợp) cho đến Philipphê Phan Văn Minh (Phi Năng Thi Tập, Nước Trời Ca), danh
sĩ Phạm Trạch Thiện (Nghinh Hoa Tụng
Kỳ Chương với 112 câu lục bát – song thất; Văn Côi Thánh Nguyệt Tán Tụng Thi Ca với 252 câu thất ngôn
phức hợp; Vãn Kinh Cầu Đức Bà
với 126 câu lục bát), Trần Lục (Ca
Vè, Vãn Cụ Sáu), Nguyễn Hữu Bài, Hồ Ngọc Cẩn (Thư Mục Giáo Khoa…), Giuse Nguyễn Văn Thích (Sảng Đinh Thi Tập), Mai Lâm (Thánh
Vịnh Toàn Tập-Nhã Ca), Tống Viết Toại (Phúc Âm Ca), Phạm Đình Tân, Võ Long Tê, Long Giang Tử (Phúc Âm Diễn Ca-Nhã Ca), JBT. Cao Vĩnh
Phan (Trường Ca Dân Chúa) , An Sơn
Vị, Vũ Đức Trinh, Nguyễn Duy Diễn, Vũ Đình Trác, Ngọc Minh, Xuân Ly Băng,
Bàng Bá Lân, Hồ Dzếnh, Trăng Thập Tự, Nguyễn Tầm Thường, Đơn Phương…
Đặc biệt là trường hợp nhà thơ tài hoa bạc mệnh Hàn Mạc Tử
(1913-1940), với quan niệm “thơ chẳng những để ca tụng Thượng đế,
mà cũng để nối người ta với Thượng đế”. Nhà văn Hoài Thanh và
Hoài Chân đã có một kết luận thỏa đáng về dòng thi ca Công giáo của
Hàn như sau: “Hàn Mạc Tử đã dựng riêng một ngôi đền thờ Chúa.
Thiếu lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ, không thể quỳ lạy
với thi nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, trí tôi làm sao không ngợp,
vì cái vẻ huy hoàng trang trọng, lung linh huyền ảo của lâu đài kia?
Với Hàn Mạc Tử, Chúa gần lắm. Thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy
chứng tỏ rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí
có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có
thể diễn ra thơ, mới thật là những tình cảm đã thấm tận đáy tâm
hồn đoàn thể”.
Riêng mảng ca
vãn – một thể loại văn học rất đặc thù của nhà đạo – có đến
trên dưới 40 tập, đã được nhà in Tân Định thu thập – phát hành
(1879-1899), dưới nhan đề “Đại Nam Việt Quấc Triều Sử Ký”. Có
thể hiểu vì sao, nhiều lần chúng ta đã nghe Đắc Lộ bày tỏ mối đồng
cảm của ông về những ngâm vịnh, vãn nguyện bằng tiếng bản địa. Càng
lạ lùng hơn, khi ta đọc được những trang Dẫn Nhập bộ Từ Điển
Annam-Latinh của Taberd (1838) chỉ dạy rất cặn kẽ về cách làm các
loại thi phú: Lục bát, song thất, thất ngôn, ngũ ngôn, phú, đối, văn
tế, văn sách, kinh nghĩa. Cả đến vị Giám mục hay chữ sau này là Đức
Cha Dom. Hồ Ngọc Cần (1876-1948) – chủ biên tờ Đa Minh Bán Nguyệt San –
đã có một trang mục dài hơi bàn về “Văn Chương Thi Phú Annam”
được nhà in Hồng Kông phát hành (1919) và sau này đăng trên tờ Nam Kỳ
Địa Phận (1908-1945).
Rõ ràng là Tin Mừng đã được thi ca hóa,
vần điệu hóa. Có lúc đến cao trào, nó trở thành một kịch bản sân
khấu có chương hồi, xen cảnh, có diễn xuất ca ngâm theo các cung điệu
nhạc Việt cổ truyền (hát ru, sa mạc, bồng mạc, xuân nữ, quan họ, ca
trù, lâm khốc…) Đúng như nhận định của tác giả “Đặc Khảo Về Dân
Nhạc Ở Việt Nam” rằng: “Trước khi âm nhạc phổ thông loại mới
(âm nhạc cải cách, tân nhạc) ra đời, ở nước ta đã sẵn có một thứ
dân nhạc, dân ca. Đó là sự dung hóa giữa giọng nói địa phương với
các thể thơ văn. Đó là thành tựu bởi khối óc và con tim của giới
bác học và bình dân… Dù là một bài ru con, một bài hò, một bài ca
trên sân khấu thì dân ca Việt Nam vẫn là những bài thơ được hát lên.
Rồi tùy theo nhu cầu mà thêm nhịp điệu cần thiết cho sự sống còn
của giai điệu và lời ca”. Mặc dù chỉ là truyền
khẩu và bình dân, nhưng nó là thứ văn chương sống động, thường trực.
Nó diễn tả tình ý một cách đại đồng, vô ngã. Quần chúng tuy không
sáng tác trực tiếp, nhưng biết nghe, biết cảm nhận, tức là biết
thưởng thức và chuyển hóa. Người Việt mình dễ xúc động trước cảnh
thiên nhiên và số phận con người, nên dễ phát ra những lời cảm thán,
tự nuôi lấy một hồn thơ dung dị cho mình. Người mình lại sẵn có năng
khiếu tự nhiên về cung bậc, nhịp điệu; lỗ tai rất bén nhạy với âm
hưởng nên dễ dàng ứng khẩu gieo vần, chắp vần, bắt nhịp. Thuộc ca
dao, cổ tích, truyện Kiều và cũng thuộc kinh sách, ca vãn đạo. Tức
là thuộc thơ. Ngôn ngữ Việt Nam, tâm hồn Việt Nam đẫm chất thơ. Hễ là
thơ thì dễ nghe, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ ngâm ngợi để ru mình, ru
người, ru tình, ru đời. Nhưng để hát hò cho điệu đàng nghệ thuật,
phải là thơ lục bát. Như thế mới toát ra cái hơi ngọt lẳng hội hè
đình đám dân ca Bắc bộ, mới thấm sâu cái hơi hò u uẩn hệ lụy của
Nam bình, Nam ai của Huế, của Trung bộ và mới tỏa lan cái ầu ơ ví
dầu của cải lương, của lý hò, của đời thương hồ sông nước và đờn ca
tài tử Nam bộ. Lục bát là một
hiện tượng đặc thù trong thi ca Việt Nam. Nó có một chỗ ngồi rất
riêng biệt. Dường như với lục bát, các nhà thơ ta xem ra có vẻ dài
hơi hơn, tròn vành rõ chữ hơn, thấu lý đạt tình hơn, bát ngát thăng
hoa hơn. Cứ nhìn ngược về thượng nguồn văn học cổ điển, cận, trung
đại. Cứ nhìn xuôi về văn học hiện đại. Sẽ thấy tất tần tật chói
loà những chùm sao thi ca lục bát. Từ ca dao, đồng dao, phong dao – một
thứ Kinh Thi, Sở Từ của Việt Nam cho đến những truyện thơ Nôm, lên
đỉnh cao như Truyện Kiều và đến những cây đa cây đề về lục bát sau
này như: Tản Đà, Huy Cận, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Hồ Dzếnh, Bàng Bá Lân,
Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Nguyên Sa, Nguyễn Duy…
Còn nhớ,
có một lần đã lâu lắm, nhà thơ Trần Dạ Từ (khôi nguyên về thơ – Giải
thưởng Văn Học Nghệ Thuật, Sài Gòn 1970) kể rằng, trong một buổi mạn
đàm về thơ, nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh (chủ soái sáng lập nhóm nhà
văn Hàn Thuyên 1932-1945 cùng với Đồ Phồn, Trương Tửu, Đặng Thai Mai)
giữa lúc hứng chí, đã quên tuổi già để đứng phắt dậy, bắt chước
nhịp đi của một người Việt Nam thời trước. Ông vừa đi vừa cong vai,
vừa phe phẩy đôi tay theo bộ tịch của một người đang gồng gánh. Ông
nói: “Đây này, ông cha mình ngày xưa
đi đứng thế này. Người mình là con nhà nông, luôn luôn có gồng có
gánh. Gồng gánh ở hai đầu đòn trì xuống, tạo thế quân mình đặc
biệt cho bước chân đi theo nhịp chẵn, đều đặn, kĩu kịt, tang bồng nhẹ
tếch. Cái thơ lục bát của mình nó có là do cái thế đi đặc biệt ấy”.
Tại sao chúng tôi không triển khai rộng hơn
đến các thể loại thơ khác nhau cho đa dạng, đỡ nhàm tẻ, mà cứ phải
nhắc lại mãi cái điệp ngữ “lục bát”?
Thưa, dễ hiểu thôi. Bởi lục bát đã
thành huyết mạch chảy dạt dào và sôi tràn trong lục phủ ngũ tạng,
trong tứ chi bá hài của người mình. Chẳng cần sự bảo vệ và
biện hộ nào. Như tiếng hát của hàng vạn câu ca dao-phong dao trong đời sống dân gian. Như bầy thiên nga ríu rít trong 3254 câu thơ “hàng hàng châu ngọc” của
truyện Kiều. Như các bậc thi tài vừa kể trên… Và như dòng chảy lục bát miệt mài bất tận của các nhà thơ Công giáo Việt Nam,
mà đêm nay - lần đầu tiên – chúng tôi mạn phép để giới thiệu-vinh danh, nhân dịp
kỷ niệm 250 năm ngày sinh của thi hào Nguyễn Du mà chúng ta đang cùng nhau “đốt lò hương cũ, so tơ phím này”, để thỉnh
cụ về chứng giám. Như thế, có nghĩa là lục
bát đúng là một hiện tượng trong thi ca Việt Nam. Nó vẫn phơi phới và
lung linh trên bầu trời thi ca Việt Nam và ngay trong dòng máu vồn vã của
người mình. Còn dân tộc thì đâu cứ phải lục bát mới là dân tộc, mới
là Việt Nam. Khối người Việt mình đã từng động não, chấp bút để
viết, viết thật nhiều lục bát, một thể thơ dân tộc tinh ròng, thuần
khiết nhất, mà vẫn cứ lạc điệu, xa vần, lai căng, chắp nối, vá víu
hoặc máy móc theo kiểu cách tân gượng gạo, vô cảm vô hồn. Bởi vì, thi ca
là chuyện nghiệp chướng, chuyện cả đời (văn
chương tự cổ vô bằng cớ). Thi ca không có thời vụ, không thể làm theo đơn đặc
hàng, chạy theo nhu cầu của thời thế. Cũng vậy, làm được một câu thơ, một khổ
thơ hoặc một bài thơ là chuyện thiên nan vạn nan. Thợ thơ và nhà thơ ở hai đầu
khác biệt. Trở lại chuyện thơ lục bát. Một khi thơ không có hồn vía thì
cái xác đất vật hèn kia chẳng báu gì. Bảo lục bát là hơi thở,
là máu thịt, là tần số trái tim của người Việt mình, có lẽ không sai. Cứ ung dung, nhẩn
nha. Cứ đủng đỉnh, tà tà. Cứ lăng ba vi bộ một cách vô chiêu. Nói như
nhà thơ Nguyễn Đình Thi, thơ lục bát đi bằng đôi chân nhịp chẵn, hít
sâu vào thì ngắn và thở ra thì dài. Hít sâu vào huyệt đan điền. Thở
ra mấy cõi vô biên đời người. Nói thật, thể loại này thông dụng, rất
dễ viết, ai cũng viết được, mở miệng ra là nói được, kể cả những
người nửa vời, ít học. Thậm chí, một bà mẹ quê bán hàng ngoài chợ,
một cô thôn nữ cày cấy ngoài đồng, chỉ với cái lưng vốn một chữ cắn đôi
cũng thuộc rất nhiều thơ lục bát, còn hơn cả những bậc tài cao học
rộng. Nhưng để viết lục bát – làm thơ lục bát cho hay, cho đẹp, cho bay
bướm, cho thành thi ca thì khó vô cùng. Cái dễ nằm ngay trong cái
khó là vậy. Nói một cách thông thái như nhà văn Nguyễn Tuân thì
anh bảo anh là nhà thơ Việt Nam ư? Vậy anh hãy cho tôi xem thử vài câu
thơ lục bát của anh, tôi sẽ nói anh là hạng bậc thi sĩ thế nào?
Nhà thờ chính tòa Đà Lạt
Ngày 26
tháng 11 năm 2016
Phanxicô
Assisi Lê Đình Bảng
Tác giả:
Francis Assisi Lê Đình Bảng
|