Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Francis Assisi Lê Đình Bảng
Bài Viết Của
Francis Assisi Lê Đình Bảng
Thơ gửi người em quê lũ
NHỮNG MÙA TRĂNG TUỔI MỌN
TRONG TAY NGƯỜI THỢ GỐM
LẠI…THAO THỨC VỚI NGƯỜI KHÔNG NGỦ
THÁNH GIÁ, LÀM SAO CON VÁC NỔI
LỬA MẾN: ngọn lửa nung nấu lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.
ĐỜI CON QUA NHƯ MÂY BAY
ĐẾN HẸN LẠI VỀ - DÂNG HOA ĐỨC MẸ
NHỮNG NGƯỜI BẮC KỲ NGÀY XƯA nay không còn nữa
Sự kỳ diệu của ngôn ngữ thi ca - Mời bạn cùng đọc BÀI NHÃ CA THÁNG GIÊNG
Trường ca TỰ TÌNH KHÚC
CHÚA NHẬT LỄ LÁ - NÉM ĐÁ - PHỤC SINH
Trường ca NẾP NHÀ NAZARETH
Đọc thơ tình yêu Lê Đình Bảng - Bùi Công Thuấn
KINH CẦU LỄ TRO MÙA CHAY
HIỆN TƯỢNG LỤC BÁT TRONG THI CA VIỆT NAM
TẢN MẠN CHUYỆN RỒNG… RẮN LÊN MÂY
BÀI NHÃ CA THÁNG GIÊNG
TỪ SILENT NIGHT HOLY NIGHT … ĐẾN ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG.
BÁO CHÍ CÔNG GIÁO VIỆT NAM HÀNH TRÌNH THẾ KỶ - MỘT THOÁNG NHÌN
HÁT TRÊN ĐỈNH TRỪƠNG SƠN
KINH SÁCH NGUYỆN GIỖ CẦU HỒN - MỘT DI SẢN ĐỨC TIN VĂN HÓA
THIÊN ĐÀNG, ĐỊA NGỤC ĐÔI QUÊ
THƯ EM TÊRÊSA GỬI CHỊ PAULINE - Kính đâng Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu
BAO GIỜ CHO ĐẾN THÁNG MƯỜI
TỪ KINH NHẬT MỘT “MAGNIFICAT” ĐẾN BÀI THƠ “LA VIERGE À MIDI”... VÀ...
VĂN CÔI THÁNH NGUYỆT TÁN TỤNG THI CA.
MỘT CHÚT TÌNH CỎ HOA
NHỮNG MÙA TRĂNG TUỔI MỌN
Bập bềnh trên sông bao la... rằm trung thu, nhớ Lm - nhạc sĩ Phương Linh
TÔI SẼ LÀM MƯA HOA HỒNG
TÔI CÓ LÀ CHI CŨNG NHỜ ƠN CHUÁ
CÔNG GIÁO VIỆT NAM VÀ DI SẢN HÁN NÔM
TẢN MẠN ĐÔI ĐIỀU
Mẹ La Vang, Mẹ Giáo Hội Việt Nam
VỀ LAVANG, VỀ NHÀ MẸ TRĂM GIAN
MỘT CHÚT TÂM TÌNH CỎ HOA
Trường ca TỰ TÌNH KHÚC
Ở MỘT MIỀN QUÊ KHÁC
GIỮA BAO LA ĐẤT TRỜI
HIỆN TƯỢNG LỤC BÁT TRONG THI CA VIỆT NAM

 

Các nhà nghiên cứu về Việt Nam học, về văn hóa Việt Nam đã có một tiếng nói chung khi đưa ra nhận định khá lý thú này: “Việt Nam là đất nước của thi ca”. Có nghĩa, bẩm sinh người Việt mình đã là thi sĩ (Natus poetà). Một nhận định khác có vẻ căn cơ hơn: “Văn hóa gốc nông nghiệp trọng âm, trọng tình cảm, tất yếu có khuynh hướng thiên về thơ. Văn hóa gốc du mục trọng dương, trọng lý trí, tất yếu dẫn đến khuynh hướng thiên về văn xuôi[1]. Thống kê trên hai tập Từ Điển Văn Học[2] cho thấy, trong 198 mục từ tác phẩm văn học phương Tây thì có 43 thơ và 115 văn xuôi (tỷ lệ văn xuôi 78,3%). Còn trong 95 mục từ tác phẩm văn học Việt Nam thì đã có tới 69 thơ và 26 văn xuôi (tỷ lệ thơ 72,6%). Nói một cách khác, thi ca đã bao trùm, phủ bóng lên dòng văn học Việt Nam, từ thể loại dân gian truyền khẩu cho đến lịch triều bác học thành văn. Đại để là các trường hợp: Trê Cóc, Trinh Thử, Nhị Độ Mai, Bần Nữ Thán, Nữ Tú Tài, Bích Câu Kỳ Ngộ, Ngọa Long Cương Vãn, Tư Dung Vãn, Tự Tình Khúc, Ai Tư Vãn, Hoa Tiên Truyện, Mai Đình Mộng Ký, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm, Quan Âm Thị Kính, Kim Thạch Kỳ Duyên, Sơ Kính Tân Trang, Đoạn Trường Tân Thanh, Lục Vân Tiên

Thi ca cũng đã chiếm phần chủ lực trong sự nghiệp sáng tác sau này của các bậc danh gia như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Tản Đà Kể cả một thế hệ thi nhân tài hoa của phong trào Thơ Mới (1932-1945). Cho đến tận ngày nay thì bao la, không kể xiết… Vẫn cứ là sự phủ bóng của lục bát, mặc dầu nhịp sống càng ngày càng vỡ bờ theo xu hướng đô thị-công nghiệp hóa.

Đây cũng là lý do đã thu hút sự chú ý đặc biệt của các nhà truyền giáo trong quá trình học ăn-học nói-học gói-học mở để rao giảng đạo Chúa cho đất nước-dân tộc Việt Nam đáng yêu này. Thi ca có sức chuyển tải và được tiếp nhận ra sao? Không thể rao giảng Tin Mừng bằng chính luận khô khan, tràng giang đại hải đối với một dân tộc thiên về cảm tính, lại sính thi ca như dân tộc Việt Nam. Việc biên soạn kinh sách, việc diễn tả đức tin lòng đạo phải dựa trên cơ sở ngôn ngữ, hình tượng, về luật bằng trắc, đối đáp của khoa tu từ học. Tắt một lời, là thả lời Chúa trôi trên dòng chảy thi ca và âm nhạc, đến với mọi người.

Liệu có cường điệu và cực đoan chăng, khi nói rằng con đường gần nhất, tuyệt vời nhất để đến với Chúa là con đường thi ca? Thơ là đạo, đạo là đường, là đời Chúa, đời người, đời ta. Đạo là lời Thiên Chúa mặc lấy xác phàm ở giữa chúng ta. Từ ngàn xưa, lời Chúa – bằng con đường thi ca – đã được các bậc thánh nhân, tiên hiền đồng cảm đồng điệu. Từ David với hàng trăm ca khúc bất tận là Thánh Vịnh, hiểu theo nghĩa Thánh Vịnh là thi ca tôn giáo, nhằm diễn tả tâm tình của người cầu nguyện. Từ hình tượng bồ câu bé nhỏ – người bạn tình trong Diễm Tình Ca Cựu Ước, Kinh Nguyện của Phanxicô Assisi cho đến Những Ca Khúc Tâm Linh rực lửa tình yêu của Gioan Thánh Giá, Truyện Một Tâm Hồn ngây ngất của Têrêsa Hài Đồng…Tất cả là một chuỗi dài, một chùm sao băng thi ca giăng mắc đất trời. Rất thánh mà cũng rất người. Rất trọng vọng, cao sang mà cũng rất lãng mạn, huê tình. Cũng vậy, đạo Chúa vào Việt Nam bằng con đường thi ca. Hẳn chúng ta còn nhớ, ngày mùng 2-7-1627, giáo sĩ Đắc Lộ vào phủ chúa Trịnh Tráng. Khuôn mặt, cung cách để lại ấn tượng sâu xa nhất, đối với ông, là một trang quốc sắc thiên hương: Bà Catarina, em gái của Chúa (đã chịu phép rửa tội) được mô tả là rất thông thạo chữ Hán, giỏi thi phú. Con gái bà cũng là Catarina đã diễn ca (8000 câu thơ lục bát) toàn bộ Cựu Ước, Tân Ước[3]. Theo Đắc Lộ, tập thơ này rất hay, rất có ích, vì không những giáo dân ngâm nga trong nhà, nơi phố chợ cũng như thôn quê, mà cả lương dân khi ca hát những lời thơ dịu dàng ấy thì cũng học biết được ít nhiều về mầu nhiệm chân lý đức tin. Đúng là đất kinh kỳ ngàn năm văn vật. Ngay buổi hừng đông đến với Tin Mừng đã được diễn ra trong khung cảnh của một thi đàn. Từ ấy, đi suốt dặm dài đạo Chúa, ở từng vùng miền, ở từng vụ việc, đã xuất hiện khá nhiều tác phẩm thi ca hữu danh, khuyết danh hoặc vô danh, bằng đủ các thể loại (tam tự, tứ tự, lục bát, thất ngôn, song thất, phức hợp…) Từ thầy giảng Phanxicô (Cảm Tạ Niệm Từ), thầy cả Lữ-Y Đoan (Sấm Truyền Ca với 5230 câu lục bát), Inê Tử Đạo Vãn với 563 câu lục bát, Truyện Alêxù (bản Đàng Ngoài, bản Đàng Trong), Giuse Đặng Đức Tuấn (Việt Nam Giáo sử Diễn Ca với 670 câu song thất; Lâm Nạn Phụng Quốc Hành với 566 câu phức hợp) cho đến Philipphê Phan Văn Minh (Phi Năng Thi Tập, Nước Trời Ca), danh sĩ Phạm Trạch Thiện (Nghinh Hoa Tụng Kỳ Chương với 112 câu lục bát – song thất; Văn Côi Thánh Nguyệt Tán Tụng Thi Ca với 252 câu thất ngôn phức hợp; Vãn Kinh Cầu Đức Bà với 126 câu lục bát), Trần Lục (Ca Vè, Vãn Cụ Sáu), Nguyễn Hữu Bài, Hồ Ngọc Cẩn (Thư Mục Giáo Khoa…), Giuse Nguyễn Văn Thích (Sảng Đinh Thi Tập), Mai Lâm (Thánh Vịnh Toàn Tập-Nhã Ca), Tống Viết Toại (Phúc Âm Ca), Phạm Đình Tân, Võ Long Tê, Long Giang Tử (Phúc Âm Diễn Ca-Nhã Ca), JBT. Cao Vĩnh Phan (Trường Ca Dân Chúa) , An Sơn Vị, Vũ Đức Trinh, Nguyễn Duy Diễn, Vũ Đình Trác, Ngọc Minh, Xuân Ly Băng, Bàng Bá Lân, Hồ Dzếnh, Trăng Thập Tự, Nguyễn Tầm Thường, Đơn Phương… Đặc biệt là trường hợp nhà thơ tài hoa bạc mệnh Hàn Mạc Tử (1913-1940), với quan niệm “thơ chẳng những để ca tụng Thượng đế, mà cũng để nối người ta với Thượng đế”. Nhà văn Hoài Thanh và Hoài Chân đã có một kết luận thỏa đáng về dòng thi ca Công giáo của Hàn như sau: “Hàn Mạc Tử đã dựng riêng một ngôi đền thờ Chúa. Thiếu lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ, không thể quỳ lạy với thi nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, trí tôi làm sao không ngợp, vì cái vẻ huy hoàng trang trọng, lung linh huyền ảo của lâu đài kia? Với Hàn Mạc Tử, Chúa gần lắm. Thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng tỏ rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ, mới thật là những tình cảm đã thấm tận đáy tâm hồn đoàn thể[4].

Riêng mảng ca vãn – một thể loại văn học rất đặc thù của nhà đạo – có đến trên dưới 40 tập, đã được nhà in Tân Định thu thập – phát hành (1879-1899), dưới nhan đề “Đại Nam Việt Quấc Triều Sử Ký”. Có thể hiểu vì sao, nhiều lần chúng ta đã nghe Đắc Lộ bày tỏ mối đồng cảm của ông về những ngâm vịnh, vãn nguyện bằng tiếng bản địa. Càng lạ lùng hơn, khi ta đọc được những trang Dẫn Nhập bộ Từ Điển Annam-Latinh của Taberd (1838) chỉ dạy rất cặn kẽ về cách làm các loại thi phú: Lục bát, song thất, thất ngôn, ngũ ngôn, phú, đối, văn tế, văn sách, kinh nghĩa. Cả đến vị Giám mục hay chữ sau này là Đức Cha Dom. Hồ Ngọc Cần (1876-1948) – chủ biên tờ Đa Minh Bán Nguyệt San – đã có một trang mục dài hơi bàn về “Văn Chương Thi Phú Annam” được nhà in Hồng Kông phát hành (1919) và sau này đăng trên tờ Nam Kỳ Địa Phận (1908-1945).

Rõ ràng là Tin Mừng đã được thi ca hóa, vần điệu hóa. Có lúc đến cao trào, nó trở thành một kịch bản sân khấu có chương hồi, xen cảnh, có diễn xuất ca ngâm theo các cung điệu nhạc Việt cổ truyền (hát ru, sa mạc, bồng mạc, xuân nữ, quan họ, ca trù, lâm khốc…) Đúng như nhận định của tác giả “Đặc Khảo Về Dân Nhạc Ở Việt Nam” rằng: “Trước khi âm nhạc phổ thông loại mới (âm nhạc cải cách, tân nhạc) ra đời, ở nước ta đã sẵn có một thứ dân nhạc, dân ca. Đó là sự dung hóa giữa giọng nói địa phương với các thể thơ văn. Đó là thành tựu bởi khối óc và con tim của giới bác học và bình dân… Dù là một bài ru con, một bài hò, một bài ca trên sân khấu thì dân ca Việt Nam vẫn là những bài thơ được hát lên. Rồi tùy theo nhu cầu mà thêm nhịp điệu cần thiết cho sự sống còn của giai điệu và lời ca[5]. Mặc dù chỉ là truyền khẩu và bình dân, nhưng nó là thứ văn chương sống động, thường trực. Nó diễn tả tình ý một cách đại đồng, vô ngã. Quần chúng tuy không sáng tác trực tiếp, nhưng biết nghe, biết cảm nhận, tức là biết thưởng thức và chuyển hóa. Người Việt mình dễ xúc động trước cảnh thiên nhiên và số phận con người, nên dễ phát ra những lời cảm thán, tự nuôi lấy một hồn thơ dung dị cho mình. Người mình lại sẵn có năng khiếu tự nhiên về cung bậc, nhịp điệu; lỗ tai rất bén nhạy với âm hưởng nên dễ dàng ứng khẩu gieo vần, chắp vần, bắt nhịp. Thuộc ca dao, cổ tích, truyện Kiều và cũng thuộc kinh sách, ca vãn đạo. Tức là thuộc thơ. Ngôn ngữ Việt Nam, tâm hồn Việt Nam đẫm chất thơ. Hễ là thơ thì dễ nghe, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ ngâm ngợi để ru mình, ru người, ru tình, ru đời. Nhưng để hát hò cho điệu đàng nghệ thuật, phải là thơ lục bát. Như thế mới toát ra cái hơi ngọt lẳng hội hè đình đám dân ca Bắc bộ, mới thấm sâu cái hơi hò u uẩn hệ lụy của Nam bình, Nam ai của Huế, của Trung bộ và mới tỏa lan cái ầu ơ ví dầu của cải lương, của lý hò, của đời thương hồ sông nước và đờn ca tài tử Nam bộ. Lục bát là một hiện tượng đặc thù trong thi ca Việt Nam. Nó có một chỗ ngồi rất riêng biệt. Dường như với lục bát, các nhà thơ ta xem ra có vẻ dài hơi hơn, tròn vành rõ chữ hơn, thấu lý đạt tình hơn, bát ngát thăng hoa hơn. Cứ nhìn ngược về thượng nguồn văn học cổ điển, cận, trung đại. Cứ nhìn xuôi về văn học hiện đại. Sẽ thấy tất tần tật chói loà những chùm sao thi ca lục bát. Từ ca dao, đồng dao, phong dao – một thứ Kinh Thi, Sở Từ của Việt Nam cho đến những truyện thơ Nôm, lên đỉnh cao như Truyện Kiều và đến những cây đa cây đề về lục bát sau này như: Tản Đà, Huy Cận, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Hồ Dzếnh, Bàng Bá Lân, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Nguyên Sa, Nguyễn Duy…

Còn nhớ, có một lần đã lâu lắm, nhà thơ Trần Dạ Từ (khôi nguyên về thơ – Giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật, Sài Gòn 1970) kể rằng, trong một buổi mạn đàm về thơ, nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh (chủ soái sáng lập nhóm nhà văn Hàn Thuyên 1932-1945 cùng với Đồ Phồn, Trương Tửu, Đặng Thai Mai) giữa lúc hứng chí, đã quên tuổi già để đứng phắt dậy, bắt chước nhịp đi của một người Việt Nam thời trước. Ông vừa đi vừa cong vai, vừa phe phẩy đôi tay theo bộ tịch của một người đang gồng gánh. Ông nói: “Đây này, ông cha mình ngày xưa đi đứng thế này. Người mình là con nhà nông, luôn luôn có gồng có gánh. Gồng gánh ở hai đầu đòn trì xuống, tạo thế quân mình đặc biệt cho bước chân đi theo nhịp chẵn, đều đặn, kĩu kịt, tang bồng nhẹ tếch. Cái thơ lục bát của mình nó có là do cái thế đi đặc biệt ấy[6].

Tại sao chúng tôi không triển khai rộng hơn đến các thể loại thơ khác nhau cho đa dạng, đỡ nhàm tẻ, mà cứ phải nhắc lại mãi cái điệp ngữ “lục bát”? Thưa, dễ hiểu thôi. Bởi lục bát đã thành huyết mạch chảy dạt dào và sôi tràn trong lục phủ ngũ tạng, trong tứ chi bá hài của người mình. Chẳng cần sự bảo vệ và biện hộ nào. Như tiếng hát của hàng vạn câu ca dao-phong dao trong đời sống dân gian. Như bầy thiên nga ríu rít trong 3254 câu thơ “hàng hàng châu ngọc” của truyện Kiều. Như các bậc thi tài vừa kể trên… Và như dòng chảy lục bát miệt mài bất tận của các nhà thơ Công giáo Việt Nam, mà đêm nay - lần đầu tiên – chúng tôi mạn phép để giới thiệu-vinh danh, nhân dịp kỷ niệm 250 năm ngày sinh của thi hào Nguyễn Du mà chúng ta đang cùng nhau “đốt lò hương cũ, so tơ phím này”, để thỉnh cụ về chứng giám. Như thế, có nghĩa là lục bát đúng là một hiện tượng trong thi ca Việt Nam. Nó vẫn phơi phới và lung linh trên bầu trời thi ca Việt Nam và ngay trong dòng máu vồn vã của người mình. Còn dân tộc thì đâu cứ phải lục bát mới là dân tộc, mới là Việt Nam. Khối người Việt mình đã từng động não, chấp bút để viết, viết thật nhiều lục bát, một thể thơ dân tộc tinh ròng, thuần khiết nhất, mà vẫn cứ lạc điệu, xa vần, lai căng, chắp nối, vá víu hoặc máy móc theo kiểu cách tân gượng gạo, vô cảm vô hồn. Bởi vì, thi ca là chuyện nghiệp chướng, chuyện cả đời (văn chương tự cổ vô bằng cớ). Thi ca không có thời vụ, không thể làm theo đơn đặc hàng, chạy theo nhu cầu của thời thế. Cũng vậy, làm được một câu thơ, một khổ thơ hoặc một bài thơ là chuyện thiên nan vạn nan. Thợ thơ và nhà thơ ở hai đầu khác biệt. Trở lại chuyện thơ lục bát. Một khi thơ không có hồn vía thì cái xác đất vật hèn kia chẳng báu gì. Bảo lục bát là hơi thở, là máu thịt, là tần số trái tim của người Việt mình, có lẽ không sai. Cứ ung dung, nhẩn nha. Cứ đủng đỉnh, tà tà. Cứ lăng ba vi bộ một cách vô chiêu. Nói như nhà thơ Nguyễn Đình Thi, thơ lục bát đi bằng đôi chân nhịp chẵn, hít sâu vào thì ngắn và thở ra thì dài. Hít sâu vào huyệt đan điền. Thở ra mấy cõi vô biên đời người. Nói thật, thể loại này thông dụng, rất dễ viết, ai cũng viết được, mở miệng ra là nói được, kể cả những người nửa vời, ít học. Thậm chí, một bà mẹ quê bán hàng ngoài chợ, một cô thôn nữ cày cấy ngoài đồng, chỉ với cái lưng vốn một chữ cắn đôi cũng thuộc rất nhiều thơ lục bát, còn hơn cả những bậc tài cao học rộng. Nhưng để viết lục bát – làm thơ lục bát cho hay, cho đẹp, cho bay bướm, cho thành thi ca thì khó vô cùng. Cái dễ nằm ngay trong cái khó là vậy. Nói một cách thông thái như nhà văn Nguyễn Tuân thì anh bảo anh là nhà thơ Việt Nam ư? Vậy anh hãy cho tôi xem thử vài câu thơ lục bát của anh, tôi sẽ nói anh là hạng bậc thi sĩ thế nào?

 

Nhà thờ chính tòa Đà Lạt

         Ngày 26 tháng 11 năm 2016

       Phanxicô Assisi Lê Đình Bảng



[1] Trần Ngọc Thêm. Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam. TPHCM 1996.

[2] Từ Điển Văn Học. NXB Khoa Học Xã Hội. Hà Nội 1983.

[3] Đã thất truyền.

[4] Thi Nhân Việt Nam. NXB Văn Học Hà Nội, 1988, tr. 187.

[5] Phạm Duy. Đặc khảo về Dân Nhạc ở Việt Nam. NXB Hiện Đại, Sài gòn 1972.

[6] Bước Chân Người Giao Chỉ của Lê Đình Bảng. Sài Gòn 1967.

Tác giả: Francis Assisi Lê Đình Bảng

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!