Mời
bạn đọc bài thơ
CHUYỆN HOA XOAN MÙA THƯƠNG KHÓ
Francis
Assisi Lê
Đình Bảng.
Em
còn nhớ
từ Thứ Tư Lễ Tro, ra Tết?
và Giêng, Hai trong cái rét Nàng Bân?
Nắng ngọt ngào
bàn tay giấu trong khăn
Đi lễ sớm
quê nhà ta mới vào mùa Thương Khó…
Gió thổi buốt
dọc hai bên đường, hoa xoan nở
Ôi, loài hoa tim tím ngát, muộn mằn
Như kẻ trộm lành vừa được phước ăn năn
Đến tắm mát ở đầu nguồn Cứu Rỗi
Suốt mấy tuần Chay
khắp làng thôn mình rộn ràng xưng tội
Lòng bâng khuâng
nghe chim hót ngoài vườn
Có phải vì còn lưu luyến, tơ vương
Những rơi rớt của vàng hương xưa cũ?
Em theo mẹ vừa ngang qua nhà xứ
Tôi chen vô, lên bốc nẻ, hôn chân
Mùi hoa xoan
hay áo em mới, cứ nồng nàn
Những e ấp, chực chờ, sợ người ta nom thấy?
Ở nhà quê
thường có những cái rất hồn nhiên, tình cờ như vậy
Trước, chưa nên
sau, cũng vận vào người
Mấy ai ngờ? Chuyện chung lứa, chẳng chung đôi
Mới chớm quen nhau
đã
nhuốm đầy nước mắt!
…..
Tôi lên phố, đi học xa nhà…
Ai bắt trẻ đồng xanh?
để em tôi nheo nhóc tản cư, bế bồng chạy
giặc
Người một phương
chả biết đến bao giờ?
Chuyện thật buồn…
vào một buổi sớm tinh mơ…
Em gục chết
ngay khi bước ra khỏi nhà thờ, vừa tan lễ…
“…Viên đạn ở đâu?
bay thẳng vào trái tim em…!” mẹ kể…
“…Lạy Chúa tôi !”
Em
còn kịp kêu tên Giêsu cực trọng vô cùng!
… Nghe đồn rằng, nơi thềm bậc nhà chung…
Ngay đêm ấy…
Em
hiện về… con bướm!
Tôi thảng thốt
được
tin em quá muộn
Thời buổi binh đao, xa xôi, cách trở đi về
Cứ cầm bằng
mình đôi ngả, đôi quê
Đành đoạn qua cầu sinh ly, tử biệt
Mà kỷ niệm thì theo ta đến chết
Như hồn ma bóng quế, hư huyền
Em vẫn là con bướm trắng… rất linh
thiêng
Nơi ký ức thiên đường, tôi đánh mất…
Nhớ là nhớ, hằng tuần, mỗi Thứ Năm, Chúa Nhật
Quỳ song đôi, hai hàng ghế hai bên
Vẫn chia lòng, chia trí… vẫn ngó nghiêng
Nghe em bảo,
đêm
nay, ngắm lễ đèn, mở cửa mồ, táng xác…
Tôi còn nhớ…
... lúc em xếp hàng từng đôi, lên dâng hạt
Ôi, lời kinh như mật rót vào hồn
Chỉ ước thầm
mình
đừng vội lớn, mau khôn
Cứ thả đỉa ba ba, dung dăng dung dẻ…
Đâu đến nỗi, vội khóc cười lan huệ:
kẻ, hoa thơm Chúa hái đầu ngày
Vốc nẻ năm xưa, ai còn giữ trong tay?
không đếm được, Vui, Thương, Mừng, em ạ
…
Thế
mới biết
ngọn ngành, có nhân, có quả
Chuyện hoa xoan
mùa Thương Khó đã lâu…
Đêm tối ba mươi, Chúa mướt máu trong Vườn Dầu
Đuốc hoa bập bùng, gà khuya gáy sớm ?
… Chiều nay, đợi chuyến xe về quá muộn
Ngắt vội chùm hoa
làm quà tặng em thôi
Bởi vì em, giờ đã là thánh nữ trên trời
Con bướm trắng
hoa xoan… mùa Thương
Khó
Tôi vẫn đợi, vẫn chờ em đầu ngõ
Hỏi sông kia, sao bên lở, bên bồi?
Ai gác thuyền, ra dàn đáy, hàng khơi
Ai tiệc rượu, ai dầu thơm, tóc mượt?
Em nhanh chân mang dầu đèn ra trước
Chầm chậm, từng bước thôi
Em ạ, chờ tôi…
***
Đọc xong bài thơ,
tôi lặng người đi rất lâu trong thế giới nghệ thuật của Lê Đình Bảng. Một nỗi
buồn thương man mác như màu tím hoa xoan bao trùm không gian làm lòng tôi day dứt
khôn nguôi. Bỗng dưng tôi đặt mình trong một tư thế trang nghiêm và rất đỗi
thành kính để chia sẻ sự mất mát không bù đắp được của nhân vật Tôi; sự mất mát
làm cạn khô nước mắt suốt bao nhiêu năm tháng. Cùng với cuộc thương khó “Đêm
tối ba mươi, Chúa mướt máu trong Vườn Dầu,” nỗi bi thương của
nhân vật Tôi tưởng không thể vượt qua được. Nhưng sau phút đắm chìm cảm thương ấy,
tâm hồn tôi bừng sáng đến ngỡ ngàng. Thơ chắp cánh cho hồn tôi bay lên. Tôi thốt
lên: Bài thơ hay quá!. Tôi lại lặng đi để cảm nhận cái hạnh phúc được đọc một
bài thơ hay. Nói thơ hay là nói cái cảm xúc trực giác, cảm xúc này là sự tổng hợp
những khám phá nhận thức về bài thơ, kết hợp với sự rung cảm của trái tim khi
nhập thân vào thế giới nghệ thuật. Với thơ Lê Đình Bảng, thật khó nói ra “cái
hay” mà người đọc tiếp nhận được. Bởi tiếng thơ Lê Đình Bảng không chỉ là tiếng
lòng của nhà thơ mà còn khơi gợi được cả một thế giới ký ức trong lòng người đọc,
hơn thế, thơ Lê Đình Bảng còn mở ra một vùng trời khác mà có khi người đọc chưa
tiếp cận nhưng vẫn cảm được cái đẹp. Vâng, bài thơ đẹp quá.
MỘT CHUYỆN TÌNH ĐẸP
Bài thơ là lời đối
thoại trong tâm tưởng của Tôi với em. Tôi nói chuyện với em, nhớ lại những kỷ
niệm yêu thương. Và, em như một nhân vật đang sống, đang ở bên Tôi, chia sẻ những
giây phút hai trái tim cùng một nhịp rung cảm, đồng cảm.
Và câu chuyện được kể
trong hồi ức về Mùa Chay ở “quê nhà ta”. Nghệ thuật kể chuyện đầy kịch
tính với tốc độ nhanh, nhiều tình huống bất ngờ của Lê Đình Bảng góp phần tạo
nên cái hay của bài thơ. Đó là nghệ thuật kể chuyện hiện đại. Câu thơ ngắn kết
hợp với ngắt nhịp biến hóa, và thay đổi góc trần thuật liên tục: tác giả kể, rồi
mẹ kể; quá khứ và hiện tại đồng hiện; thế giới thực tại với thế giới tâm linh lồng
vào nhau, vừa tái hiện hiện thực, vừa khắc họa được sự bất tử của nhân vật em,
sự vĩnh cửu của tình yêu.
Nghệ thuật kể chuyện
ấy kết hợp với cái nhìn đức Tin, tạo nên sự chuyển hóa rất mới lạ. Xưa nay sinh
ly tử biệt là nỗi buồn đau bi kịch, nhấn chìm con người trong bóng tối. Nhưng
trong chuyện tình này, cái chết bất ngờ đầy đau thương của em “ngay khi bước ra khỏi nhà thờ, vừa tan lễ” là một cuộc tử vì đạo, vì em cùng
chết với Đức Giêsu. “…mẹ kể…/…Lạy Chúa tôi !”/ Em còn kịp kêu tên Giêsu cực
trọng vô cùng!”. Em bước thẳng một bước vào cửa thiên đàng để trở thành “thánh
nữ trên trời”, và hiển linh ngay trước mắt mọi người. :
Nghe
đồn rằng, nơi thềm bậc nhà chung…
Ngay đêm ấy…
Em hiện về… con bướm!...
…
Bởi vì em, giờ đã là thánh nữ trên trời
Con bướm trắng
hoa xoan… mùa Thương Khó…
…Em vẫn là con bướm trắng… rất linh thiêng
Đó là sự thăng hoa
tuyệt vời của sáng tạo nghệ thuật, nhưng cũng là của một đức
tin tinh ròng ngay
trong những hoàn cảnh đau thương nhất. Cái Đẹp của chuyện tình mang phẩm chất Mỹ
học Kitô giáo, nhưng lại được thể hiện một cách tự nhiên như trong đời thường,
như trong tâm linh dân gian (người ta tin rằng, ở những nơi tưởng niệm, khi có
con bướm lạ bay vào, đó chính là hồn người chết hiện về).
Từ sự thăng hoa cái chết của em, mọi
yếu tố của câu chuyện đều được chuyển hóa và hiện lên với một vẻ đẹp mới lạ.
Không gian tâm linh và không gian nghệ thuật giao hòa trong hoan ca. Những cảnh
“nheo nhóc tản cư, bế bồng chạy giặc” trong “thời buổi
binh đao”, hình ảnh “một buổi sớm tinh mơ…/ Em gục chết/ ngay khi bước ra khỏi nhà thờ, vừa tan lễ”, đêm trước cuộc thương khó, “Đêm
tối ba mươi, Chúa mướt máu trong Vườn Dầu”…
những biến động xã hội
lớn lao đau thương ấy trở thành bè trầm hùng vĩ của một bản đại giao hưởng Phục
Sinh. Giờ em ở trên cao, là “thánh nữ trên trời”. Có lẽ trong văn chương
Việt, không có nhân vật nữ nào tuyệt đẹp như thế. Tiên Dung công chúa, hay Lý
Thị Thiên Hương (Linh Sơn Thánh Mẫu-Núi Bà Đen-Tây Ninh) là những nữ thần tình yêu
xinh đẹp linh thiêng lẫm liệt, thì nhân vật Em cũng có những phẩm chất ấy, hơn
nữa nàng đơn sơ, thánh khiết hơn: nàng đi lễ sớm dù trời lạnh buốt, nàng quỳ cầu
nguyện nghiêm trang, nàng dâng hạt, lời kinh như mật:
Nắng ngọt ngào
bàn tay giấu trong khăn
Đi lễ sớm
quê nhà ta mới vào mùa Thương Khó…
Gió thổi buốt
dọc hai bên
đường, hoa xoan nở…
…
Nhớ là nhớ, hằng tuần, mỗi Thứ Năm, Chúa Nhật
Quỳ song đôi, hai hàng ghế hai bên
Vẫn chia lòng, chia trí… vẫn ngó nghiêng
Nghe em bảo,
đêm nay, ngắm lễ đèn, mở cửa mồ, táng xác…
Tôi còn nhớ…
... lúc
em xếp hàng từng đôi, lên dâng hạt
Ôi, lời kinh như mật rót vào hồn
Từ sự Phục Sinh của Em, những kỷ niệm
trong thời gian trước và sau cái chết của em, cũng phục sinh. Nói cách khác,
tình yêu đã vượt qua tử sinh. Những kỷ niệm ấy vẫn đang sống động như trong hiện
thực (lưu ý Lê Đình Bảng dùng chữ “chiều nay” ở thì hiện tại). Em đi lễ sớm
trong giá rét…Tôi ngắt vội chùm hoa .
Em theo mẹ vừa ngang qua nhà xứ
Tôi chen vô, lên bốc nẻ, hôn chân
Mùi hoa xoan
hay áo em mới, cứ nồng nàn
Những e ấp, chực chờ, sợ người ta nom thấy?
Và:
Chiều nay, đợi chuyến xe về quá muộn
Ngắt vội chùm hoa
làm quà tặng
em thôi…
Và tôi suy nghĩ nhiều về em để nhận
ra Tôi. Em là “hoa thơm Chúa hái đầu ngày”; Em là trinh nữ khôn ngoan
trong dụ ngôn 10 cô trinh nữ (Mt 25, 1-13) “Em nhanh chân mang dầu đèn ra
trước”để đón tân lang (đón Chúa). Cả hai tứ thơ đều ca ngợi em, đều
diễn tả cái chết của em đẹp ý Chúa, em về trời trong sự quan phòng của
Chúa. Còn tôi:
Suốt
mấy tuần Chay
khắp làng thôn mình rộn ràng xưng tội
Lòng bâng khuâng
nghe chim
hót ngoài vườn
Có phải vì còn lưu luyến, tơ vương
Những rơi rớt của vàng hương xưa cũ?
Khắp làng thôn rộn ràng xưng tội Mùa
Chay, còn tôi thì chưa, vì lòng trí còn lơ đãng “nghe chim hót ngoài vườn,
còn lưu luyến tơ vương “những rơi rớt của vàng hương xưa cũ”. Em
trang nghiêm thánh thiện bao nhiêu thì tôi nghịch ngợm bấy nhiêu
Quỳ
song đôi, hai hàng ghế hai bên
Vẫn chia lòng, chia trí… vẫn ngó nghiêng…
Em dâng Hạt, lời
kinh ngọt mật, nhưng tôi lại lo ra:
lúc em xếp
hàng từng đôi, lên dâng hạt
Ôi, lời kinh như mật rót vào hồn
Chỉ
ước thầm
mình
đừng vội lớn, mau khôn
Cứ thả đỉa ba ba, dung dăng dung dẻ…
Những thổ lộ như thế
của Tôi khắc họa một nhân vật Tôi có vai trò đặc biệt trong kiến tạo tác phẩm
và làm nên sự hấp dẫn của bài thơ.
Tôi là nhân vật kể chuyện, tự
kể chuyện tình của mình. Tôi còn là nhân vật tâm trạng, Tôi độc thoại
trong tâm tưởng với em (ở thì hiện tại). Sự kết hợp hai góc trần thuật này của
Tôi tạo nên hiệu quả kép. Tức là, vừa tái hiện dòng chảy của hiện thực ngoài
kia, vừa mở ra cái dòng chảy tâm trạng của Tôi. Ngoài kia là khung cảnh làng
quê rộn ràng mùa kinh hạt, ngoài kia là buổi binh đao dân nheo nhóc tản
cư, giáo dân chết đạn ngay khi bước ra khỏi nhà thờ, ngoài kia là ly tán
đôi ngả đôi quê, “đành đoạn sinh ly tử biệt”.
Còn Tôi, tâm trạng
cuồn cuộn chảy, ào ạt, những lớp sóng tâm hồn với nhiều suy nghĩ và cảm xúc cứ
tràn lên hết lớp này đến lớp khác. Chính những lớp sóng cảm xúc này của Tôi làm
nên sự phong phú và chiều sâu nghệ thuật của bài thơ.
Tôi với tâm trạng “ngọt
ngào” trên đường quê đầy hoa xoan nở khi đi theo em đến nhà thờ. Tôi hạnh
phúc biết bao nhiêu “Như kẻ trộm lành vừa được phước ăn năn/ Đến tắm mát ở đầu
nguồn Cứu Rỗi”. Tôi nghịch ngợm và tinh tế. Mùi thơm của áo em sao nồng nàn
quyến rũ thế!
Em theo mẹ vừa ngang qua nhà xứ
Tôi chen vô, lên bốc nẻ, hôn chân
Mùi hoa xoan
hay áo em mới, cứ nồng nàn
Những e ấp, chực chờ, sợ người ta nom thấy?
Tôi buồn bã khi phải
đi học xa nhà: Người một phương/ chả biết đến bao giờ?
Nghe mẹ kể về cái chết
của em, tôi đau đớn bất lực:
Tôi thảng thốt/ được tin em quá muộn
Và Tôi không nguôi
thương nhớ, không thôi độc thoại, không thôi sống trong tâm tưởng những kỷ niệm
với em, và tôi muốn đi theo em (điệp từ: “Tôi còn nhớ”;“nhớ là nhớ”)
Tôi
vẫn đợi, vẫn chờ em đầu ngõ
Hỏi sông kia, sao bên lở, bên bồi?...
…Chầm chậm, từng bước thôi
Em ạ, chờ tôi…”
Rõ ràng sự kết hợp nhân
vật tôi kể chuyện với nhân vật tôi tâm trạng đã tạo nên sắc thái thẩm
mỹ rất riêng cho bài thơ. Bài thơ vừa bao quát được hiện thực rộng lớn ngoài
kia, vừa dẫn người đọc thâm nhập rất sâu vào tâm thức của một con người trong
nhiều chiều kích: chiều rộng của bối cảnh lịch sử xã hội, chiều cao thẳm của
tâm linh (vượt qua tử sinh vươn tới thiên đàng), chiều phức tạp của tâm lý con
người trong tình yêu, trong những nghịch cảnh và trong hành trì tư tưởng nhằm
giải thích “có nhân có quả” những
vấn đề nhân sinh, tư tưởng và tôn giáo (chiến tranh loạn lạc, cái chết bất ngờ
đau đớn của người dân, sinh ly tử biệt, mối tương quan giữa người sống và người
chết, sự tự ý thức và tự sám hối, niềm tin “ được phước ăn năn/ Đến tắm mát ở
đầu nguồn Cứu Rỗi”…)
Trong vai trò của nhân
vật tôi kể chuyện, Tôi còn chêm vào những lời bình ngoại đề một cách tự
nhiên như thổ lộ tâm sự (theo cách kể chuyện dân gian), để thổi bùng lên cảm
xúc của người đọc.
Đang kể chuyện theo em đi nhà thờ Tôi
chen vào “ lên bốc nẻ, hôn chân”, và cảm
nhận mùi hoa soan, mùi áo em nồng nàn gần gũi. Một
tình yêu còn e ấp, chực chờ, Tôi tạm ngưng kể mà
bình luận (cũng là tâm tình chia sẻ):
Ở nhà quê
thường có những cái rất hồn nhiên, tình cờ như vậy
Trước, chưa nên
sau, cũng vận vào người
Mấy ai ngờ?
Sau khi kể lại kỷ niệm
cùng em “ngắm lễ đèn, mở cửa mồ, táng xác…” trong đêm thứ Sáu tuần Thánh, Tôi
quay ra suy gẫm:
Thế
mới biết
ngọn ngành, có nhân, có quả
Cuối bài thơ là một
loạt câu hỏi (cũng là một cách bình luận), để nâng tầm tư tưởng
cho bài thơ, bởi vì việc kể chuyện đã kết
thúc. Không gian, thời gian, tâm tưởng mở rộng biên độ ra mãi. Khổ thơ này đòi
hỏi người đọc phải có vốn sống, có tri thức văn hóa Việt và sự hiểu biết Kinh
Thánh mới cảm hết cái hay của tư tưởng:
Tôi
vẫn đợi, vẫn chờ em đầu ngõ
Hỏi sông kia, sao bên lở, bên bồi?
Ai gác thuyền, ra dàn đáy, hàng khơi
Ai tiệc rượu, ai dầu thơm, tóc mượt?
Kết bài thơ là lời Tôi đề nghị với
em, tuy ngắn gọn, nhưng tạo ra dư âm vang vọng mãi.
Em
nhanh chân mang dầu đèn ra trước
Chầm chậm, từng bước thôi
Em ạ, chờ tôi…
Chuyện tình yêu chưa
kết thúc. Em sẽ dẫn Tôi và người đọc vào thế giới của ánh sáng, vào Thiên Đàng
vĩnh cửu, không còn-mất đau thương, không “bên lở, bên bồi”…
Trở lại vấn đề, nhân vật tôi kể chuyện, Tôi
kể câu chuyện của đời thực, tạo ra sự khả tín đối với người đọc. Trái lại, nhân
vật tôi tâm trạng, tạo nên chất lãng mạn cho bài thơ. Một bài thơ vừa hiện
thực nhưng lại đẫm màu sắc lãng mạn, đó là cái chất riêng của thơ Lê Đình Bảng.
VẺ ĐẸP THI CA MỚI
Khi đặt bài thơ này
bên cạnh những bài thơ tình yêu Việt Nam, bạn sẽ nhận ra sự mới mẻ nghệ thuật
mà Lê Đình Bảng mang lại cho thơ Việt đương đại. Thơ tình Xuân Diệu đầy nhục cảm.
Thơ tình Nguyễn Bính dập dìu lễ hội dân gian, thơ tình Phạm Thiên Thư thấp
thoáng ánh vàng cửa Thiền, thơ tình thời chiến tranh sáng rực màu đỏ (Màu
tím hoa sim của Hữu Loan, Núi Đôi của Vũ Cao; Quê hương của
Giang Nam, Cuộc chia ly màu đỏ của Nguyễn Mỹ, Hương thầm của Phan
Thị Thanh Nhàn). Nhưng cái màu tím hoa xoan mùa thương khó là một khám
phá mới về tứ thơ.
Khi tưởng niệm đức Giêsu chịu chết
(thứ Sáu Tuần Thánh), người phụ trách lễ thường hái hoa xoan đem trộn với hạt cốm
(thóc rang- mà tác giả gọi là “nẻ”), bỏ vào trong áo quan đựng xác Chúa. Giáo
dân lên hôn chân Chúa sẽ cảm nhận mùi thơm hoa soan rất nhẹ và thanh khiết. Hôn
xong, người tín hữu đưa tay bốc một ít “nẻ”(cốm có trộn hoa xoan) trong áo quan
của Chúa, gọi là xin “lộc” của Chúa. Trẻ con hôn chân Chúa chủ yếu là để bốc nẻ
ăn.
Trong bài thơ này, Lê Đình Bảng khám phá
màu tìm hoa xoan để diễn tả nỗi đau
buồn mùa Chúa chịu nạn, nhưng cũng để diễn tả tình
yêu. Lứa đôi đi nhà thờ trên con đường đầy hoa xoan.
quê nhà ta mới vào mùa Thương Khó…
Gió thổi buốt
dọc hai bên đường, hoa xoan nở
Ôi, loài hoa
tim tím ngát, …
…Mùi hoa xoan
hay áo em mới, cứ nồng nàn
điệp khúc “hoa xoan… mùa Thương Khó”được tiếp tục nhắc lại ở cuối bài thơ tô đậm tình
yêu lứa đôi, tô đậm nỗi buồn thương thánh thiện. Hoa xoan là “hoa xoan… mùa
Thương Khó”(tức là mùa lễ thánh, người giáo dân đau buồn trước cái chết của
Chúa). Điều tinh tế và kỳ diệu là tình
yêu lứa đôi vừa hồn nhiên ngây thơ, vừa hòa trong nỗi đau buồn mùa lễ thánh, và
trở thành hy lễ của cả hai người dâng lên Chúa trong ngày Thương Khó. Thế nên
tình yêu ấy tuyệt vời thánh thiện và mới lạ trong thi ca Việt. Mở đầu là hoa
xoan nở hai bên con đường tình lứa đôi, cuối cuộc tình là “hoa xoan…mùa
thương khó”. Đó là sự phát triển tư tưởng. Tình yêu hồn nhiên thánh thiện nở
hoa tím đau thương hòa trong Ơn Cứu Độ.
Những tứ thơ mang tư tưởng như thế
thật mới lạ trong thơ tình Việt. Với thơ tình Công giáo, Lê Đình Bảng còn khám
phá cái đẹp ngay trong sinh hoạt đạo đức của giáo dân. Góc máy quay của Lê Đình
Bảng linh hoạt vô cùng. Mở đầu là font nền có góc rất rộng trong không gian, thời
gian: những con đường làng đầy hoa xoan tím, gió thổi lạnh,
Suốt
mấy tuần Chay
khắp làng
thôn mình rộn ràng xưng tội.
Rồi ống kính zoom lại,
tập trung vào lứa đôi:
Em
theo mẹ vừa ngang qua nhà xứ
Tôi chen vô, lên bốc nẻ, hôn chân
Ống kính gần hơn,
soi vào chỗ riêng tư :
Quỳ song đôi, hai hàng ghế hai bên
Vẫn chia lòng, chia trí… vẫn ngó nghiêng
Nghe em bảo,
đêm
nay, ngắm lễ đèn, mở cửa mồ, táng xác…
Sau cùng ống kính dừng
lại ở em:
... lúc
em xếp hàng từng đôi, lên dâng hạt
Ôi, lời kinh như mật rót vào hồn.
Những chi tiết sinh
hoạt rất riêng của “nhà đạo” như “bàn tay giấu trong khăn/ Đi lễ sớm”, xưng tội, hôn chân Chúa, quỳ song
đôi cầu nguyện, ngắm lễ đèn, mở cửa mồ, nghi thức táng xác, dâng
hạt là những điều rất đỗi bình thường của mùa Thương Khó. Không gian nhà thờ
chìm ngập trong màu tang (Thứ Sáu và thứ Bảy Tuần Thánh, giáo dân ở nhiều giáo
xứ đội khăn tang, để thương tiếc Chúa), chẳng thơ chút nào. Nhưng những chi tiết
sinh hoạt ấy bỗng trở thành thơ, rất thơ, rất mới lạ mà trong thơ ca Việt chưa
có bao giờ, kể cả trong thơ Hà Mạc Tử, và trong thơ “nhà đạo” hôm nay. Vấn đề
là ở chỗ, nhà thơ là người khám phá ra cái đẹp mới mẻ ấy, và biến chúng thành
thi liệu đắt giá. Đó là tài năng nghệ sĩ, đó cũng là con đường khai phá mà Lê
Đình bảng đóng góp cho thi ca Công giao đương đại.
Và Lê Đình Bảng đã chuyển hóa những
sinh hoạt đời thường ấy thành yếu tố văn hóa, thành chất liệu thi ca, đóng góp
vào thi ca Việt những phẩm chất mới lạ, thuần Việt, hồn Việt trong trẻo đến lạ
lùng. Xin lưu ý rằng, thơ Việt trung đại sử dụng nhiều điển tích Trung Quốc. Thời
Pháp thuộc, thơ Việt chịu ảnh hưởng thơ Lãng mạn Pháp.
Một điều rất thú vị làm nên chất tài
hoa của thơ Lê Đình Bảng là việc sử dụng ngôn ngữ bình dân bên cạnh những cách
diễn đạt rất sang trọng lịch lãm.
Câu
thơ này như một câu nói ngày thường: “Ở nhà quê/ thường có những cái rất hồn nhiên, tình cờ như vậy”. Hoặc một câu nói như
nghe từ cửa miệng các bà mẹ quê: “Người một phương/ chả biết đến bao giờ?”, có cả cách nói triết
lý của người nông dân: “Thế mới biết/ ngọn ngành, có nhân, có quả”. Điều này giúp người
đọc nhận ra Lê Đình Bảng đã sống rất sâu trong văn hóa dân gian, văn hóa thuần
Việt, từ đó chuyển hóa thành thơ. Và trên cái nền nã giản dị, tự nhiên, trong
trẻo ấy, bất chợt xuất hiện những tứ thơ như lấp lánh vàng:
Lòng
bâng khuâng
nghe chim
hót ngoài vườn
Có phải vì còn lưu luyến, tơ vương
Những rơi rớt của vàng hương xưa cũ?
Tứ thơ sau đây có
bóng dáng của “chùm hoa năm ngoái”, cũng có cái mê hoặc cõi Thiên Thai: sang trọng,
cổ kính nhưng mới lạ
Chiều nay, đợi chuyến xe về quá muộn
Ngắt vội chùm hoa
làm quà tặng
em thôi
Bởi vì em, giờ đã là thánh nữ trên trời
Chữ “thôi”,
chữ “bởi vì” là khẩu ngữ, có thể bỏ đi không ảnh hưởng ngữ nghĩa câu
thơ, nhưng chính những từ ngữ ấy lại đem đến cái duyên cho thơ, cái ý nhị trong
lời nói, và cái tài hoa của một phong cách thơ.
VỸ THANH
Câu chuyện tình đã kết
thúc. Em đã là thánh nữ trên trời, vậy còn điều gì làm cho lòng ta day dứt?
Đó là cái chết của
em, một cái chết đột ngột quá, một cái chết thương tâm quá. Người đọc chưa được
chuẩn bị tâm thế để đón nhận một tin buồn giữa lúc đang dõi theo tình yêu lứa
đôi tưởng là sẽ rất lãng mạn, tưởng là sẽ được Chúa chúc phúc.
vào một buổi sớm tinh mơ…
Em gục chết
ngay khi bước ra khỏi nhà thờ, vừa tan lễ…
“…Viên đạn ở đâu?
bay thẳng vào trái tim em…!” mẹ kể…
“…Lạy Chúa tôi !”
Chuyện kể với tốc độ
nhanh như chính sự việc xảy ra trong nháy mắt làm choáng váng. ”Viên đạn ở
đâu?/ bay thẳng vào trái tim em “ và tiếng kêu của
mẹ “…Lạy Chúa tôi” thảng thốt, rồi ngưng bặt không thốt thành lời. Nếu
trước đó nhà thơ miêu tả chiến tranh thì người đọc còn có thể liên tưởng được
và nỗi đau không choáng ngợp như thế. Cái chết ấy, ai đã trải qua chiến tranh,
để lại bao điều day dứt.
Thôi thì, người chết
đã yên phận, trong niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, em đã là thánh nữ trên
trời, nhưng người còn sống, nhân vật Tôi (người kể chuyện, nhân vật tâm
trạng) người yêu của em sống thế nào. Thôi thì
Cứ cầm bằng
mình đôi ngả, đôi quê
Đành đoạn qua cầu sinh ly, tử biệt…
…Mà kỷ niệm thì theo ta đến chết
Một ước vọng nhỏ nhoi không thành:
Chỉ
ước thầm
mình
đừng vội lớn, mau khôn
Cứ thả đỉa ba ba, dung dăng dung dẻ…
Đâu đến nỗi, vội khóc cười lan huệ
Nên vọng mãi đến
thiên thu một câu hỏi không có hồi đáp.
Tôi
vẫn đợi, vẫn chờ em đầu ngõ
Hỏi sông kia, sao bên lở, bên bồi?
Một thãng thốt trong
mơ như đang ở giữa đời thực
Chiều nay, đợi chuyến xe về quá muộn
Ngắt vội chùm hoa
làm quà tặng em thôi…
…Chầm chậm, từng bước thôi
Em ạ, chờ tôi…
Lòng tôi rưng rưng mãi khi đọc những
câu thơ gan ruột của một người yêu với người yêu, của một thi nhân tài hoa và
đa tình rất mực, của một hồn thơ mênh mang như dòng sông kia chảy mãi tới cõi
Thiên đàng. Xin cám ơn người đã để lại cho đời một bông hoa tuyệt vời hương sắc.
Tháng 3/ 2022