●Francis Assisi Lê Đình Bảng
Hai phạm trù, hai lĩnh vực khác
biệt. Một đàng quy hướng về cõi tinh thần, tâm linh và một đàng thiên
trọng về đường mỹ cảm, nghệ thuật. Trên lý thuyết, một bản văn về
đức tin hoặc văn học, tuy cùng sử dụng phương tiện diễn đạt, hình
thức chuyển tải là ngôn ngữ văn tự, nhưng cả hai không hẳn đồng nhất
về nội dung, mục đích. Thực tế trái lại. Dù Đông hay Tây, kim hay cổ,
dường như hai phạm trù riêng rẽ này vẫn phải có nhau, cần đến nhau,
nương tựa vào nhau, bổ sung bù đắp qua lại với nhau, như một quan hệ
biện chứng. Bởi khi văn dĩ tải đạo và thi ngôn kỳ chí
thì đạo mở lối chỉ đường cho thơ văn thấu
cái minh triết, trụ cái bền vững, đạt cái thăng hoa miên viễn.
Liệu có hữu khuynh và cường điệu
không, hay chỉ là những dự cảm chủ quan, những định kiến như đã
truyền đời đã thành nề nếp về mối quan hệ máu thịt tất yếu giữa
tôn giáo với văn học nghệ thuật của phương Tây? Cuộc hôn nhân ấy – như
thường thấy phân tích và kết luận – được nuôi dưỡng, được giữ gìn
bền vững là nhờ ba cái trụ cột chống đỡ: Trí tuệ uyên bác của Hy
Lạp, pháp lý kỷ cương của La Mã và tinh thần đạo đức của Kitô giáo,
Do Thái giáo kết tinh trong Thánh kinh. Thật vậy, không khó khăn
lắm để nhận diện, để bắt được cái
mạch chủ Thánh Kinh ẩn hiện, loé sáng, lộ ra dưới nhiều dạng
thức, nhiều thể loại. Từ văn chương tự thuật của Augustino ở
đầu kỷ nguyên Kitô giáo, từ tổng luận thần học của Tôma Aquinô,
từ trầm tư ở Solesme đến tư tưởng của Pascal, J.J. Rousseau… Từ trường
ca các tạo vật của Phanxicô Assisi đến le génie du Christianisme
của Chateaubriand, la providence se lève avant le soleil của
Lacordaire và Premières méditations của Lamartine…Càng không nghi
ngờ gì nữa, khi ta tiếp cận thế giới tiểu thuyết, thi ca, triết học,
kịch nghệ của những cây đa cây đề như V. Hugo, L. Tolstoi, P. Claudel, A. Vigny;
A. Musset, C. Péguy, A. Gide, Le Comte du Noüy v.v…Người ta bảo, đó là di
sản của nền văn minh văn hoá Kitô giáo. Như vậy, chúng ta sẽ nghĩ
gì, khi nghe F. Mauriac tuyên bố, ông chỉ là một người Công giáo
viết tiểu thuyết, chứ không dám nhận cái vinh dự là nhà tiểu
thuyết Công giáo và khi nghe L. Estang biện biệt hai tính cách khác
nhau của người thi sĩ Công giáo với người Công giáo thi sĩ?
Phải chăng, trong quá trình cảm
hứng và sáng tác, có một mâu thuẫn nội tại, một giằng co ở bên
trong con người của văn nghệ sĩ Công giáo? Là tín hữu, nhà văn nhà
thơ có sứ mạng tông đồ là truyền thông đức tin, hết lòng phục
vụ, bảo vệ chân lý. Là tín hữu, họ phải mang nguồn dưỡng khí cho
văn học để tiến dâng lên Thiên Chúa, và như thế là họ đã biến cuộc
đời thành một hiến lễ phụng vụ liên tục. Nhà văn nhà thơ Kitô giáo
ý thức trách nhiệm của mình, vì khi họ viết tức là họ ngợi ca
Thiên Chúa và trở thành người dẫn dắt các linh hồn, bởi lẽ tác
phẩm có khả năng lôi kéo, tập hợp, hiệp nhất và đưa người ta về đất
hứa của tâm linh. Mặt khác, là nghệ sĩ, nhà văn nhà thơ phải tuân
theo những phép tắc, phải biết vận dụng những thủ pháp tu từ, phát
huy hết sở trường của năng khiếu bẩm sinh và trải nghiệm, tiếp thu
từ thực tế cuộc sống để hiến mình cho nghệ thuật, để hấp
dẫn và thuyết phục được một công chúng nhất định. Tóm lại, phải
trải qua một cuộc bể dâu, đoạn trường để cưu mang và sinh thành tác
phẩm. Giữa đôi ngả đôi đường, trung thành với lời Chúa và làm
vui lòng người. Thật không đơn giản.
Quan niệm như trên, khác nào muốn
đặt văn học và người sáng tác vào vùng cấm của mạc khải, của
linh ứng. Đành rằng, hôm qua, hôm nay và mãi mãi về sau, Thánh
Kinh vẫn là một kiệt tác văn chương vĩ đại nhất của nhân loại.
Nhưng không hẳn mọi nơi, mọi thời, mọi người đều đón nhận và chuyển
tải cái sứ điệp Tin Mừng ấy ở cùng một mức độ và bằng một cách
thế giống nhau, như nhau. Mưa công chính rải đều trên mặt đất, song mỗi
cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh. Có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ. Có
Thánh Kinh của bậc giáo phụ, của người thông thái và cũng có Thánh
Kinh của những người bình dân ở chiếu dưới. Đó là bản sắc riêng
của từng con người, từng vùng miền văn hoá mà lời Chúa nhập
thể, qua Thần Khí tác động. Tác phẩm văn học Công giáo nói chung, vì
thế, không hoặc chưa phải là tiếng nói chính thức của Hội Thánh Công
giáo, nhưng đơn giản chỉ là phần đóng góp, là sự cống hiến
theo nghĩa vụ “nén bạc” của những tín hữu có khả năng văn học
và muốn dùng văn học làm công cụ diễn đạt đức tin Công giáo.
Cụ thể hơn, văn học Công giáo là những
công trình, sự nghiệp tinh thần của người tín hữu nhằm mục đích vận
dụng ngôn ngữ văn tự để thể hiện đức tin lòng đạo của mình. Sự
thể hiện này nhiều hay ít, đậm hay nhạt, trực tiếp hay gián tiếp
còn tuỳ thuộc vào quá trình lao động nghệ thuật và chiều kích đời
sống đức tin được tôi luyện mỗi ngày của tác giả. Nói như Augustino
là hãy kiếm tìm với ước muốn được gặp thấy và gặp thấy với
ước muốn kiếm tìm thêm mãi. Như huấn giáo của Hội Thánh: “Hạnh
phúc cho những ai đã gặp thấy chân lý, để đào sâu chân lý và mang
chân lý đó cho người khác. Hạnh phúc cho những ai chưa gặp gỡ chân
lý, nhưng vẫn thành tâm tiến tới công lý, mong họ tìm ánh sáng ngày
mai nhờ ánh sáng hôm nay, cho đến lúc ánh sáng chan hoà. Nhờ ơn Thiên
Chúa, cái khả năng hoà đồng sâu xa giữa khoa học chân chính và đức
tin chân chính có lẽ không bao giờ hiện rõ như ngày hôm nay, vì tất
cả đều phục vụ cho chân lý duy nhất. Xin đừng ngăn cản cuộc gặp gỡ
quý báu này.” (Công đồng Vaticanô II).
Câu hỏi đặt ra, tưởng như một áp
lực phải khẳng định là có hoặc không. Thật khó nghĩ, khó tìm ra
lời giải đáp thoả đáng. Khép, mở. Hiện thực và trừu tượng. Vừa
dứt khoát lại vừa do dự, nếu không muốn nói là khiên cưỡng, một
chiều… Chúng ta đọc được cái thái độ trung lập và ngại ngần đầy
cẩn trọng, cân nhắc ấy của các nhà viết văn học sử, giáo sử Việt
Nam: Dương Quảng Hàm, Nghiêm Toản, Hồ Hữu tường, Hoàng Trọng Miên,
Phạm Văn Diêu, Hà Như Chi, Lê Văn Siêu, Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng, Nguyễn
Hồng, Phan Phát Huồn, Nguyễn Khắc Xuyên, Phạm Đình Khiêm, Đỗ Quang
Chính v.v… Ngay cả đến linh mục - nhà Việt Nam học Cadière – trong
toàn bộ các tiểu luận về đời sống văn hoá, tín ngưỡng Việt Nam –
cũng chỉ dừng lại ở cái mẫu số chung còn bỏ ngỏ: “Việt Nam là
một dân tộc mà ở tất cả các tầng bậc xã hội, tình cảm tôn giáo
thể hiện một cách mạnh mẽ, như chế ngự trọn vẹn đời sống. Nó bao
trùm lên tất cả sinh hoạt hằng ngày… Tôn giáo chiếm hữu lấy họ ngay
từ khi mở mắt chào đời, dẫn dắt họ đi suốt đường đời cho đến lúc
nhắm mắt xuôi tay. Thậm chí, cả khi chết rồi, tôn giáo còn phủ bóng
trên họ. Khi nhận ra cái nguồn gốc sâu xa mà các thần linh thuộc thế
giới siêu nhiên đã gieo vãi trong tâm hồn người Việt Nam, người ta không
thể phủ nhận sự thật: Dân tộc này là một dân tộc hết sức sùng
đạo…Khi thì tình cảm ấy bùng nổ ra giữa thanh thiên bạch nhật trong
dáng vẻ long trọng của các nghi lễ nơi các đền đài của những tôn
giáo được nhà nước công nhận. Khi thì nó náu mình khép nép nơi một
gốc cây, trước một viên đá sần sùi. Lại có trường hợp, người ta
diễn cảm lời cầu kinh của mình thành những ca vãn có kèm theo âm
nhạc và nhảy múa. Nhưng cũng có lúc người ta lại thầm thì khấn xin
điều gì đó mỗi khi ngang qua một cái am nhỏ đầy ma mị…” (Triết Lý Dân gian – Vũ Trụ Luận,
Tạp chí Anthropos, 1907-1908). Là những kẻ hậu sinh, chúng tôi chỉ dám
dự thảo bằng cách ghi nhận khái quát một thực tế như trên về mối
quan hệ giữa Công giáo với văn học tại Việt Nam. Có nghĩa là đến
nay, câu hỏi vẫn để ngỏ, mở ra nhiều chiều, chưa thể đi đến kết
luận. Tóm lại, qua các công trình nghiên cứu tổng quát hoặc chuyên
khảo của các tác giả trên, một số vấn đề căn cốt của văn học Công
giáo, của văn học Công giáo Việt Nam chưa được đặt ra. Chẳng hạn, tính
cách của văn học Công giáo; các khuynh hướng văn học và các tác
giả tác phẩm tiêu biểu của văn học Công giáo Việt Nam. Và quan
trọng hơn, chẳng hạn, văn học Công giáo Việt Nam trong một viễn
tượng lịch sử; diện mạo và đời
sống văn học Công giáo Việt Nam như
thế nào trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam…Đó là
trường hợp Vũ Ngọc Phan (1940) và Hoài Thanh, Hoài Chân (1941) đã làm
được, khi nhận định về tính Công giáo trong tiểu thuyết Một
Linh Hồn của Thuỵ An và thi phẩm Xuân Như Ý của Hàn Mạc
Tử. Nhưng ngần ấy lại chỉ là cá biệt, riêng lẻ, chưa làm rõ được một đời sống có thật và toàn diện
của cộng đồng Công giáo Việt Nam còn mênh mông, bát ngát hơn nhiều.
Chẳng rõ là định kiến, là ngộ
nhận hoặc thận trọng? Giới nghiên cứu nói chung vẫn có cảm tưởng,
hình như văn học Công giáo Việt Nam là một thế giới đóng kín,
thuộc về một cõi riêng tư nào đó, biệt lập, âm thầm,
khó thâm nhập. Cho nên xét cho cùng, sở dĩ có sự thiếu vắng –
không đáng trách, nhưng đáng buồn – ấy là vì nhiều lý do gần xa khác
nhau. Xin trưng dẫn một vài trường hợp:
Rất nhiều tác
phẩm (ca, vãn, tuồng, truyện) khuyết
danh, ẩn danh, vô danh hoặc chỉ đọc thấy vài chữ viết tắt ở đâu
đó, nơi những bản thảo, những di cảo. Khổ nỗi, những chữ này lại
có nguồn gốc từ cổ ngữ Latinh rất nhà thờ nhà chung. Nhiều người
trong đạo còn chưa tường, huống chi người ở bên ngoài đạo làm công
việc tìm hiểu, nghiên cứu. Vẫn biết chỉ vì đức khiêm tốn, vâng lời
tối mặt, để sáng danh Chúa hoặc để cho việc truyền giáo, giữ đạo
được an toàn mà đa phần các tác
giả phải ẩn mình trong những ký tự như J.M.J (Jésus, Marie,
Joseph), A.M.D.G. (Ad Majorem Dei Gloriam) hoặc những tên thánh như Simon,
Catarina, Phanchicô, Inê… Tác phẩm Công giáo ở dạng lưu hành nội bộ này
rất phổ biến, chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng số sách vở Công giáo
Việt Nam xuyên suốt các thế kỷ XVII-XX. Bán tín bán nghi về tên tuổi,
không rõ xuất xứ nhân thân, hoàn cảnh của tác giả tác phẩm, hoạ may
chỉ còn cách là phăng tìm chính ngôn ngữ của bản văn mà hệ quả
thường rơi vào dự đoán, kém giá trị. Đó là trường hợp của các tác
phẩm Hán Nôm Quốc ngữ Công giáo có tầm cỡ và rất phổ biến như: Cảm
Tạ Niệm Từ, Alêxù Vãn, Tứ Mạt Ca, Nghinh Hoa Tụng Kỳ Chương, Văn Côi
Thánh Nguyệt Tán Tụng Thi Ca, v.v…
Có những tác
phẩm rõ ràng do người Công giáo sáng tác, biên soạn, nhưng nội dung chẳng nói gì về Chúa về đạo,
mà thuần là những chuyện văn hoá nghệ thuật Việt Nam, đông tây, kim
cổ. Nguyễn Trường Tộ, Petrus Ký, Huình Tịnh Paulus Của và Mai Lão
Bạng, Nguyễn Văn Mại chẳng hạn. Có nên trải thảm thỉnh mời các bậc
danh nhân văn hoá, nhân sĩ cách mạng ấy vào trong toà nhà Văn học Công
giáo Việt Nam không? Ở đây, nên nhân danh tiêu chí nào, là con người
Công giáo hay tác phẩm có nội dung Công giáo?
Trong khi đó, có
vô số tác giả tự nhận là Kitô hữu, bởi tác phẩm của họ đầy dẫy
những từ ngữ, hình ảnh Chúa, Đức Mẹ, nhà thờ, nhà chung y hệt kiểu
cách nói năng kinh sách của người đạo gốc đạo dòng. Nhưng tư tưởng và nghệ thuật thì hời hợt,
tầm thường. Thiết tưởng đây là chuyện cần phải được xem xét thật
nghiêm túc, kỹ lưỡng hơn. Bằng không, diện mạo và đời sống văn học
nhà đạo sẽ chẳng có gì khởi sắc, sẽ buồn tẻ vô cùng, không đáng
gọi là văn học.
Chúng tôi đang
nghĩ về cái “tàng kinh các” bao
gồm hàng trăm hàng nghìn công trình
biên khảo, nghiên cứu, giáo trình, tiểu luận, luận án tiến sĩ
Thần học, Triết học, Phụng vụ, Tín Lý, Giáo phụ, Tôn giáo, Linh
đạo, Thánh Kinh, Tu đức, Tự điển Ngôn ngữ, Sử học, Văn hoá Nghệ
thuật của các đấng bậc làm thầy
trong Hội thánh và của quý vị học giả – giáo sư ở các trường Đại
Học trong và ngoài Việt Nam từ 1945 đến nay. Lại phải kể tới
hàng loạt tác phẩm viết về đạo bằng tiếng Latinh, Pháp, Ý, Bồ, Tây Ban Nha của các thừa sai và quan chức
nước ngoài đã phổ biến rộng rãi hoặc còn đang ngủ yên nơi các
thư viện Âu châu. Thư mục ở dạng này đồ sộ và kinh điển lắm, chỉ
tiếc chưa ai mở cửa, bắc cầu để tiếp cận, tìm hiểu, nghiên cứu, phổ
biến cho rộng đường khơi tả.
Chúng ta nghĩ gì
về các tác phẩm phản ánh sâu sắc nội dung mạc khải Công giáo, đồng
thời đạt giá trị nghệ thụât, mặc dù tác
giả không phải là người Công giáo? Đó là trường hợp: Tuồng
Joseph của Trương Minh Ký (1888); Văn Tế Đức Cha Allys, Mừng
Lễ Giáng Sinh cùng nhiều bài chính luận rất xác tín về đức
Chúa Trời của chí sĩ Phan Bội Châu viết trên tờ báo Tiếng Dân (1936),
Vì Chúa (1936-1937); của nhà văn Lê Văn Trương đăng trên Nguyệt san Đức
Mẹ Hằng Cứu Giúp (7-1956) v.v…
Và còn nhiều, rất nhiều tác giả
tác phẩm thuộc các lĩnh vực thi ca,
âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh cảm hứng
từ Thánh Kinh, hạnh tích, hoặc từ thực tế đời sống đức tin của
người Công giáo. Chúng tôi không dám bao biện, vơ vào. Nhưng rõ
ràng Công giáo, ít nhiều, đã khơi gợi trong lòng văn nghệ sĩ Việt Nam
một gặp gỡ mới mẻ, một đồng cảm khác lạ, tinh khiết,
thiêng liêng nào đó. Chẳng hạn, tân nhạc Việt Nam, lần đầu tiên,
có bóng dáng nhà thờ êm ả, có tiếng chuông rộn rã sớm chiều, có
vang rền nền nã thánh ca, những chuyện tình lứa đôi nửa đêm hẹn nhau
đi lễ Giáng Sinh và cả nỗi u uẩn trầm tư về thân phận người: Tiếng
Chuông Nhà Thờ của Nguyễn Xuân Khoát, Tiếng Chuông Chiều Thu
của Tô Vũ, Giáo Đường Im Bóng của Nguyễn Thiện Tơ, Chiều Bên
Giáo Đường của Lê Trọng Nguyễn, Tình Ca của Hoàng Việt, Cát
Bụi của Trịnh Công Sơn, Bài Thánh Ca Buồn của Nguyễn Vũ… cùng biết bao
tình khúc cảm hứng từ Noël, Tà áo
Nô-en, Lạy Chúa trên cao, Hai mùa Noël… Phải là người có tâm hồn
nhạy cảm lắm, nhạc sĩ thiên tài Văn Cao mới khắc hoạ được một hình
ảnh đẹp của ngôi làng – xứ đạo Việt Nam giữa thời mịt mờ binh lửa:
Làng tôi xanh bóng
tre
từng tiếng chuông ban
chiều
tiếng chuông nhà thờ
rung…
(Làng Tôi, 1947)
Hàn Mạc Tử – nói như
Hoài Thanh Hoài Chân – Hình như trong
các thi phẩm xưa nay có tính cách tôn giáo, không có gì giống như
vậy. Hàn Mạc Tử đã dựng riêng một ngôi đền thờ Chúa… Thơ Hàn Mạc
Tử ra đời, điều ấy chứng tỏ rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo
ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ.
Đây, thi sĩ của đạo
quân Thánh giá
Nửa đêm nay vùng dậy
để tung hô.
(Nguồn Thơm)
Tuy không thể xác tín
được như trên, nhưng các nhà thơ Việt Nam, tôi trộm nghĩ, họ đã đứng
thật gần bên nhà thơ tín hữu Hàn Mạc Tử và họ đã nói giùm người tín hữu Công giáo chúng ta những nỗi niềm
muốn thân thưa cùng Chúa, cùng Mẹ, cùng nhau.
Tôi sẽ đến trước
mặt Người, Thượng Đế
Để kêu than khi tôi
đã lìa đời
Khi lá rụng và hồn
tôi đã xế
Sang bên kia thế giới
của loài người
(Huy Cận, Lửa Thiêng, 1940)
Loài người nay trần
truồng không Thượng Đế
Dắt nhau đi trong
tiến bộ diệu kỳ
Ngày tàn rồi, bóng
tối đến lâm ly
Đêm u khổ vào cuộc
đời tội lỗi
Đêm đã đến, chiều
nhân gian hấp hối
Ánh sáng ơi, khao
khát đến vô cùng…
(Quách Thoại, Giữa
Lòng Cuộc Đời,
Saigòn 1956)
Khi mắt em rung bóng
giáo đường
Chiều mưa trên mái
tóc tha hương
Anh đi trong gió và
anh nguyện
Tìm
những hồn đau lạc biển sương
Em chắp đôi tay khấn
nguyện thầm
Ngàn sao vọng lại
một hồi âm
Bài kinh tín mộ từ nguyên
thuỷ
Còn ngát mùi hoa,
đượm khói trầm…
(Đinh Hùng,
Hồi Chuông Giáo đường, Đường vào Tình sử, Sàigòn, 1967)
Chiều buốt linh hồn,
tôi đứng đây
Nguyện cầu Thánh
giá, chắp đôi tay
Rưng rưng mắt lệ
nhìn xa thẳm
Mơ lửa trời thiêng
cháy vạn ngày
(Hồ Dzếnh, Hiu Quạnh, Hà Nội, 1944)
Chiều lạnh quá,
ngoài kia, đời đã xế
Vào đây con, trong
lửa ấm lòng cha
Con nhớ nhung ánh
sáng tiệc đời hoa
Đèn trăm nến, thơ
muôn màu đã tắt
(Hồ Dzếnh, Hồn Chiều)
Mẹ đẹp vô ngần, Mẹ
trắng phau
Gấp nghìn hoa huệ,
vạn bồ câu
Và nhan sắc Mẹ không
là gấm
Nhưng dệt bằng hương
rất nhiệm mầu
(Hồ Dzếnh, Mẹ Maria)
Trưa hôm nay, con ngồi
như trẻ nhỏ
Giữa đáy trưa trong
lòng Mẹ vô cùng
Con là sáo, Mẹ là
ngàn vạn gió
Mẹ là trời, con là
hạt sương rung
(Xuân Diệu)
Trên cõi thiên đường
ngát ánh sao
Tinh anh toả rộng
bốn trời cao
Phiêu diêu anh sống
bên toà Chúa
Dựng
một đài thơ ở chốn nào
Em chỉ cầu xin một
buổi chiều
Dưới bàn tay Chúa,
cạnh người yêu
Ta tung thơ lạ cho
trần thế
Lạy Chúa, đời con
đã khổ nhiều…
(Mai Đình, Trăng cũ chiêu niệm Hàn Mạc Tử, 11-1948)
Đây, Tha La xóm đạo
Có trái ngọt, cây
lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng
hanh
(Vũ Anh Khanh, Tha
La xóm đạo, 1955)
Lần kia, anh ghiền
nghe tiếng chuông
Làm thơ sầu mộng
dệt tình thương
Để nghe khe khẽ lời
em nguyện
Thơ thẩn chờ em
trước thánh đường
Mỗi lần tan lễ,
chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một
lối về
E lệ, em cầu kinh nho
nhỏ
Thẹn thùng, anh đứng
lại, không đi
Lạy Chúa, con là
người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ở
trên cao
Trong lòng con giữ
màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn
con, Chúa ôi.
(Kiên Giang, Hoa Trắng Thôi
Cài Lên Áo Tím, Bến
Tre, 1958)
Ngày xưa tôi có
người em nhỏ
Quê ở Thanh Bồ, xứ
đạo xa
Mỗi bận gửi thư, em
dặn nhớ
Khi
nào có dịp ghé thăm nhà
Một lần, về giữa
mùa sinh nhật
Hai đứa cùng đi lễ
với nhau
Dâng Chúa lời xin
thành khẩn nhất:
“Cho
hai con đẹp mộng ban đầu”
… Để sang năm mới,
ngày sinh nhật
Có một người yêu
đợi một người
Xin lễ nửa đêm làm
lễ cưới
Cho
tròn ước nguyện tuổi đôi mươi.
(Nhất Tuấn, Truyện Chúng Mình, 1964)
Ngày xưa, xin Chúa
một điều:
Chúng con mong nhận
thật nhiều tình nhau
Cứ gì pháo đỏ,
trầu cau
Mới nên nghĩa nặng
tình sâu cả đời
Chỉ xin được Chúa
nhận lời
Chúng con thề sẽ
suốt đời yêu nhau
Nhưng rồi, Chúa ở
trên cao
Lời thề ai đã bay
vào hư không.
(Lệ Khánh, Nguyện Cầu, 1966)
Thì ra, đức
tin đã đến và ở lại với người Việt mình từ thuở nào, chẳng ai hay. Muộn màng, non trẻ,
lặng thầm mà nhuần nhị, bền lâu. Bước
đi của lịch sử truyền giáo tới đâu, mọc lên hoa trái văn học tới đấy.
Không gióng trống mở cờ. Không tuyên ngôn, cương lĩnh, biểu ngữ, hô
hào. Đáo giang tuỳ khúc, nhập gia tuỳ tục. Gối lên sóng mà bơi. Nước
lên thì thuyền lên. Chẳng có biên
giới nào ngăn cách đức tin với văn hoá, tôn giáo với văn học. Cứ
vỡ đất, gieo hạt. Cứ trồng trọt, tưới tắm. Đã có sương trời hơi đất
thì ắt có ruộng mật bờ xôi. Tôi hằng tin vào Sấm ngôn:
Cũng như mưa với
tuyết sa xuống từ trời
Không trở về trời,
nếu chưa thấm xuống đất
Chưa làm cho đất phì
nhiêu và đâm chồi nảy lộc
Cho kẻ gieo có hạt
giống, cho người đói có bánh ăn
Thì Lời Ta cũng vậy
Một khi xuất phát
từ miệng Ta
Sẽ không trở về với
Ta, nếu chưa sinh hoa trái
(Is 55, 10-11)
Không phải ai ai cũng được ơn mạc
khải, linh ứng. Hàn Mạc Tử là một trường hợp đặc biệt của đặc
biệt. Lần đầu tiên trong cõi thi ca Việt Nam, trong cơn rên siết đớn đau
bi luỵ nhất, Hàn vẫn giữ cho lòng mình tinh khiết (La pureté de l’âme)
để nguyện cầu:
Tôi van lơn, thầm
nguyện Chúa Giêsu
Ban ơn xuống cho mùa
xuân hôn phối
Xin tha thứ những câu
thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ,
kẻ lên trăng.
(Đêm Xuân Cầu
Nguyện)
Đây rồi, đây rồi,
chuỗi ngọc vàng Kinh
Thơ cầu nguyện là
thơ quân tử ý
Trượng phu lời và
Tông đồ triết lý
Là nguồn trăng yêu
mến nữ Đồng Trinh…
Tấu lạy Bà, lạy Bà
đầy ơn phước
Cho tình tôi nguyên
vẹn tựa trăng rằm
(Thánh
Nữ Đồng Trinh Maria)
Và lần đầu tiên, Hàn
Mạc Tử mách bảo thiên hạ bốn phương trời mười phương đất rằng thơ
chẳng bao giờ cạn nguồn, hãy đến và múc lấy cảm hứng từ mạch suối
vô thuỷ vô chung là Đức Chúa Trời: “Người
tri kỷ của thi sĩ phải là một bậc cao quý, toàn tài năng, một Đấng
mà thi sĩ nhận lấy như là hết cả mọi sự. Đấng ấy là Đức Chúa
Trời… Cho nên tất cả thi sĩ trong đời phải quy tụ, phải đi khơi mạch
thơ ở Đức Chúa Trời. Với một sứ mệnh của Trời, thi sĩ phải biết
đem tài năng ra ca ngợi Đấng Chí Tôn và làm cho người đời thấy rõ vẻ
đẹp của thơ để đua nhau nhìn nhận và tận hưởng. Những thi sĩ nào
không biết đem tài ứng dụng vào chỗ tốt đẹp thì sẽ bị Đức Chúa
Trời lấy tài lại một cách nhãn tiền…Baudelaire nói thơ văn không thể
dung hoà với khoa học hay luân lý và thơ văn không thể lấy chân lý làm
chủ đích, thơ chỉ là thơ. Baudelaire nói trái ngược với lẽ tự nhiên.
Baudelaire thuộc về phái vô thần, nên không tin cả chân lý, không nhận
chân lý làm tiêu chuẩn cho văn thơ. Còn Trí (Hàn Mạc Tử) phải lấy
Đức Chúa Trời làm chân lý, làm tiêu chuẩn cho văn thơ, văn thơ không
phải bởi không mà có.”
(Quan
niệm Thơ. Chơi Giữa Mùa Trăng, Qui Nhơn, Juin, 1939)