TỚI PHIÊN CHẦU LƯỢT NHỚ VỀ THÔNG CÔNG
l Lê Đình Bảng
1.
Trên đây là câu thơ kết thúc bài VÃN ngắn,
rất phổ biến trong dân gian nhà đạo mình, nói về cái quang cảnh sầm
uất đông vui mà thiêng liêng sùng mộ của người tứ xứ thập phương, mỗi
năm đến hẹn lại cơm nắm cơm gói rủ nhau về “thông công chầu lượt”
ở xứ này, xứ nọ.
Dù ai xuôi ngược đâu đâu,
Nhớ phiên chầu luợt, rủ nhau mà về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Tới phiên chầu luợt, nhớ về thông công.
Mới
hay, lễ lạy, kinh hạt bên đạo, đâu đâu cũng thấy đầy ắp những văn
chương thi phú, quanh năm suốt tháng cứ là vồn vã xôn xao những hội
hè. Cuối tháng 5 vừa rồi, về giáo xứ Tân Lập bên kia đò Thủ Thiêm,
tôi được sống lại khoảnh khắc lễ hội Dâng Hoa Đức Mẹ của một cộng
đoàn đầy sinh động, biết giữ gìn và phát huy truyền thống. Từ rước
kiệu, Dâng hoa, tiến hoa đến Tế hoa đủ nét vẻ, sắc màu, cung điệu. Ai
dám bảo người Công giáo Việt Nam khô khan hững hờ, đứng bên lề dòng
chảy văn hóa của dân tộc? Trăm nghe không bằng một thấy. Có ai ngờ,
từ xửa xưa, nơi những xóm thôn vây quanh bóng tháp giáo đường kia,
ngày đêm vẫn vang lên những câu hát vừa đạo hạnh vừa huê tình. Tác
giả mảng văn học dân gian truyền khẩu đậm đặc mùi đạo ấy là ai, nếu
không phải là các linh mục quản xứ hay chữ; các thầy đồ-sĩ tử vì
một lẽ nào đó phải bao phen lận đận trường thi, thăng trầm hoạn lộ
và cả cái đám đông chức việc ẩn danh chìm khuất giữa mùa vụ lam lũ
nắng mưa bám đất bám đồng kia? Đấy là công trình của một tập thể,
là gia tài tinh thần văn hóa chung của mọi người, y như trường hợp văn
học dân gian của toàn xã hội. Vâng, người Công giáo Việt Nam thuộc
nằm lòng ca dao tục ngữ, mê Kiều, thích ngâm ngợi hát hò Lục Văn
Tiên, Phạm Công Cúc Hoa, Nhị Độ Mai, Hoa Tiên, Bích Câu Kỳ Ngộ… Và
người ta cũng đã phải sững sờ khi nghe thấy từ cửa miệng của lứa
đôi trong xóm đạo hát rằng:
Chẳng nệ em xấu, em vụng, em ươn,
Thương em, vì em là cái xương sườn của anh.
Họ
vẫn không quên bài Giáo Lý vỡ lòng tuổi đồng ấu tung tăng trong sân
nhà thờ:
Người ta sống ở trên đời,
Đạo tự nhiên sẵn tính Giời đã sinh.
Cảm ơn tạo hóa công trình,
Sinh ta, sinh cả tính tình cho ta.
Biết đường chính, biết nẻo tà,
Suy cùng các đạo để mà tầm nguyên.
Rõ
ràng là, bằng tâm hồn thi ca, người Công Việt Nam đã giữ đạo, sống
đạo và truyền đạo vậy.
2.
Qua bài “Rước Kiệu Mình Thánh Chúa
Giêsu” trong số báo trước – tôi có phác thảo đôi nét về “Chầu
Thánh Thể”, như một cử hành Phụng vụ trung tâm của Giáo hội. Nay,
xin được phép viết về “Chầu Lượt”, một sáng kiến rất đặc thù
của Giáo hội Công giáoVN. Nói thế, bởi một phần tôi ít được đi ra
nước ngoài, lại thiếu sách vở tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về
Phụng vụ Thánh Thể, nên nhận xét bước đầu trên đây có thể vội vàng,
nông cạn chăng? Dù sao, vấn đề là vấn đề, vẫn phải truy tìm cho ra
tấm ra món rõ ràng.
Hỏi
chứ, tại sao gọi là “Chầu Lượt” và “Chầu Lượt” có
nguồn gốc xuất xứ từ đâu? Hình thức và nội dung “Chầu Lượt”
như thế nào? Trở lại vấn đề đã-thành-nề-nếp này, tưởng như không
thừa. Bởi trộm nghĩ, “vô tri” thì “bất mộ” và xưa nay
việc “ôn cố tri tân” là lẽ thường tình kia mà. Chẳng rõ, “Chầu
Lượt”, một thuật ngữ nhà đạo, một cử hành Phụng vụ đã xuất
hiện từ bao giờ, ở đâu và tại sao nó đã sớm trở thành một việc
đạo đức thiêng liêng, một sinh hoạt luân phiên đều đặn và nghiêm túc,
đã đi vào lịch Phụng vụ mang tính lễ hội mùa vụ ở các cộng đoàn
xứ đạo Việt Nam? Lâu, lâu lắm rồi thì phải?
Theo
chỗ tôi biết và cũng dựa vào vào vốn sống ký ức có được từ những
năm tháng giữ đạo-sống đạo ở làng quê thì “Chầu Lượt” hình
như chỉ phổ biến rộng rãi ở các giáo phận Bắc bộ. Nhà thờ nào
cũng vậy, trước thánh lễ Chúa nhật hàng tuần, thường dành ra dăm ba
phút để cộng đoàn nghe “rao lịch Công giáo”. Lời rao được thâu
tóm vào một số đề mục cần thiết, như: Thư Chung (Thư Luân Lưu – Lời
Chủ Chăn – Thư Mục Vụ); các ngày lễ Kính –
Nhớ, kèm theo phần Giáo huấn (Ý cầu nguyện) và xướng danh các đôi
hôn phối. Đặc biệt, người phụ trách còn lớn tiếng “rao cho mọi
người biết” Chầu Lượt tuần này ở xứ nào. Toàn bộ những nội
dung trên, cùng với bài giảng lễ Chúa nhật của chủ tế – theo cung
cách truyền khẩu và tình làng nghĩa xóm của người mình – lại được
chuyển tải đến từng khu vực dân cư, đến tận các đoàn thể, từng
ngành nghề, thậm chí nhà nhà và người người. Thế là, cứ răm rắp
thẳng mực Tàu. Đã có nhiều bạn bè ngoài Công giáo hỏi tôi, sao bên
đạo các anh thống nhất và toàn tâm toàn ý thế? Nói năng, ăn mặc, kinh
sách, hát hỏng, làm lụng, chợ búa, ma chay, giỗ chạp, hội hè, cơm
cỗ, nghĩa là tất tần tật toát ra mùi đạo thuần nhất, toàn tòng.
Nhẹ nhàng, thông thoáng mà hiệu quả vốn được đánh giá là những nội
lực tiềm tàng, truyền thống trong việc chuyển tải và tiếp nhận thông
tin của nhà đạo bấy lâu nay.
Rõ
rệt hơn, sách “Lịch Công giáo”, “Những Ngày lễ Công giáo”,
“phụng Vụ Năm A, B, C”, nói chung là sách lịch về những ngày
lễ của các giáo phận Bắc và Trung bộ đều có ghi rõ lịch “Chầu
Lượt” của từng giáo xứ, họ đạo, để ai nấy chuẩn bị sắp xếp
việc nhà việc mình cho tươm tất, đặng dốc sức dốc lòng lên đường “Chầu
Lượt”. Gọi là “Chầu Lượt” hay “Phiên Chầu” – từ một
khẩu ngữ rất nhà quê đến một thuật ngữ rất nhà đạo – có nghĩa, xứ
đạo này hoặc họ đạo kia đến lượt mình phiên mình thay mặt cho toàn thể
giáo phận để cử hành trọng thể (cả về hình thức là tổ chức lẫn
nội dung là ý nghĩa Phụng Vụ) việc Chầu Mình Thánh Chúa. Chầu Lượt
thường rơi vào các ngày Chúa nhật. Thành thử, 52 ngày Chúa nhật
quanh năm đều có Chầu Lượt (một xứ họ đạo riêng rẽ hoặc liên kết 3,
4 xứ họ lại với nhau) hình thành một xâu chuỗi thời gian thiêng liêng,
một vòng tròn lễ nghi Phụng vụ quy chiếu về tâm điểm là Thánh Thể.
Sức sống thường hằng và miên viễn của Giáo Hội là thế.
3.
Qua tài liệu thư tịch cũ, đặc biệt là
Thư Chung của đấng bản quyền các giáo phận, có thể lần ra manh mối,
ngọn nguồn của vấn đề. Từ Thư Chung của giáo phận Tây Đàng Ngoài
(Hà Nội), với các Gm. P.A. Retord Liêu 1840-1858; Gm. C.H. Jeantet Khiêm
1858-1861: Gm. J.S. Theuret Chiêu 1866-1868; Gm. P.F. Puginier Phước
1868-1892) và đặc biệt của GM.Pierre Marie Gendreau Đông (1892-1935) do
nhà in Kẻ Sở ấn thành năm 1924.
Cụ
thể là, trong Thư Chung làm tại Hà Nội ngày 08-9-1902, Đức Cha Phêrô
Maria Gendreau Đông viết: “… Từ sang năm mà đi, sẽ chỉ mỗi giáo xứ
một hay là hai ngày lễ cả (Chúa nhật) cho được Chầu Mình Thánh
trọng thể lót ngày, thay mặt cả và địa phận. Có ý liệu cho các xứ
sỉ lượt nhau mà chầu làm vậy cho khắp các ngày lễ cả quanh năm. Sau
này sẽ có thư riêng chỉ xứ nào chầu ngày nào và phải làm thế nào.
Nhưng mà từ rày về sau, cho đến cuối năm nay, xứ nào nhà thờ trị sở
chưa có phép để Mình Thánh, thì phải liệu dọn dẹp sắm sửa mọi sự
và xin cho kịp. Vả lại, xứ nào đã được phép rồi, song chưa có nhà
chầu tiện cho được để mặt nhật lên trốc, thì phải liệu ngay”.
Năm
sau, vào tháng Juin (tháng 6), 1903, việc “Chầu Lượt” đã được
Đức Cha Phêrô Maria Gendreau Đông qui định cụ thể: “… Vậy trong Thư
Chung về Phép Mình Thánh gửi cho các đấng tháng trước thì đã dạy
rằng; Từ sang năm mà đi, sẽ liệu cho các xứ mỗi xứ sỉ lượt chầu
lót một ngày lễ cả quanh năm thay mặt cả địa phận. Đây, gửi sổ chầu
để các đấng biết xứ mình phải chầu lượt ngày nào.Việc chầu lượt
thể ấy vốn Tòa Thánh lấy làm quý, cùng hay giục các đấng Vít – vồ
lập trong địa phận mình coi sóc, vì sinh nhiều ơn ích cả thể cho mọi
người được ăn mày phần hồn phần xác kể chẳng xiết…”
4.
Như vậy, tính từ 1903 đến nay, việc cử
hành “Chầu Lượt” ở các cộng đoàn xứ đạo Việt Nam đã có một
chặng đường lịch sử hàng trăm năm.
Nay,
tôi lại xin phép được trình bày tiếp về ý nghĩa, nội dung cùng hình
thức tổ chức của việc đạo đức thiêng liêng đã thành truyền thống
đáng trân trọng lưu giữ này. Một truyền thống đức tin và văn hóa
thuộc phạm trù tín điều bất biến, chứ không đơn giản là một thói
quen, một tập tục, một phong trào nhuốm mùi thị hiếu thường tình
của xã hội.
Phải
đặt mình vào bối cảnh lịch sử Giáo Hội Công giáo Việt Nam những năm
đầu thế kỷ XX – trong tình hình và đặc điểm các xứ đạo – nhà thờ
vừa gượng dậy sau những phen bão táp bách hại vô cùng nghiệt ngã,
lâu dài từ 1848 đến 1886 – để thấy CHẦU LƯỢT
chỉ là một trong những gợi ý ban đầu về Phụng Vụ Thánh Thể vừa
mới mẻ, lại, vừa phức tạp khó khăn dường nào trong quá trình đưa
vào đời sống giáo dân. Một phần vì bổn đạo đang phân sáp, trốn
chạy; chủ chăn thiếu vắng, cách ly. Đang vắng cha xa Chúa, chưa quy tập
đông đủ thì làm sao kịp hoàn hồn để bắt nhịp trở lại được với đạo
với đời? Phần khác, sau cái thuở trời đất nổi cơn gió bụi ấy, hầu
hết các nhà thờ, các cơ sở và mọi sinh hoạt tôn giáo đã như khựng
lại hoặc bị triệt phá nặng nề, nếu không muốn nói là cạn kiệt,
tiêu điều, vườn không nhà trống. Từ nhà thờ, bàn thánh, nhà chầu
đến chuông khánh, chén lễ, mặt nhật, sàn hát, nghi thức và kinh sách
lễ nhạc thảy đều tứ tán, trôi giạt, hư hao. Nói chi đến cái tâm thế
chênh chao, ủ dột chán chường của lòng người đã bị săn đuổi đến
cùng đường. Điểm nóng là ở Trung và Bắc bộ, cơn bão rớt của phong
trào Văn Thân–Bình Tây Sát Tả (Đạo) xem ra còn ầm ỉ, dây dưa
kéo dài mãi. Đến như cái chòi lá – nhà thờ Đức Mẹ La Vang 1885 (một
trong ba họ nhánh thuộc giáo xứ Cổ Vưu – Trí Bưu, Huế) nằm giữa thâm
sơn cùng cốc bạt ngàn ở tỉnh Quảng Trị mà cũng không thoát khỏi
tại họa. Thành thử, chuyện đạo
gốc, đạo dòng, chuyện đạo chồng đạo vợ, chuyện theo đạo bỏ đạo và
chuyện kế tục-chuyển giao-đứt nối giữa các thế hệ của nhiều họ
tộc Công giáo ở các làng bên đạo mình đã là một thực tế, một tồn
tại mang tính lịch sử khách quan, một kinh nghiệm để suy nghĩ về mục
vụ truyền giáo.
Nhắc
lại một chút lịch sử nhiễu nhương trên, để thấy rằng mỗi cử hành
Phụng vụ của Giáo hội đều xuất phát từ một cội rễ rất sâu xa của
tín lý-thần học, đồng thời phải kinh qua một quá trình tiệm tiến
để dừng bước vận dụng, thích nghi, hội nhập, chứ không phải là một
ngẫu hứng của cảm tính, một vẽ vời để áp đặt đâu.
5.
Để thấy rõ hơn ý nghĩa-nội dung trọng
vọng của CHẦU LƯỢT ở buổi ban đầu ấy, xin mời đọc lại trích
đoạn sau đây trong Sổ Chầu của Đức Giám mục giáo phận Tây Đàng
Ngoài: “Xưa Đức Thầy Liêu đã ước ao lập trong địa phận này hết
sức, mà vì đời ấy không có thể liệu được, thì người đã lập sự
đọc kinh trong 3 ngày Tết vì lý do ấy. Rầy Đức Mẹ thương trong địa
phận ta được bằng yên, số các xứ các thầy cả đã nở thêm nhiều, mà
bây giờ hầu hết các xứ giữ Mình Thánh, ấy là ơn rất châu báu dường
nào, cùng dễ liệu CHẦU LƯỢT làm sáng danh phép Mình Thánh thì ta
phải vui lòng khuyên giúp con chiên được sầm uất làm việc ấy cho xứng
đáng”. Tôi nói Sổ Chầu cũng
là để người đời sau chúng ta học tập cung cách làm việc cẩn trọng
và khoa học của các đấng bậc tiền nhiệm. Bởi vì Tòa Giám mục nào,
nhà thờ xứ đạo nào cũng có nhiều thứ sổ sách ghi chép đàng hoàng
về tất cả mọi sự kiện có liên quan đến sinh hoạt Phụng Vụ và đời
sống của dân Chúa. Từ Sổ Rửa Tội, Thêm Sức, Sổ Hôn Phối, Sổ Nhân
Khẩu Công giáo (Sổ Gia Đình Công giáo), Sổ Địa Bạ (Ruộng Đất, Quy
Hoạch, Thóc Lúa, Giống Má, Tài Sản), Sổ Công Đức – Bia Hậu v.v… Có
thể coi đây là những trang Nhật Ký và Sử Ký Biên Niên của dân Chúa ở
mỗi địa phương, có giá trị rất căn cơ về mặt Phụng Vụ, văn hóa và
xã hội. Ngoài ra các đấng bậc còn có Sổ Lễ và Sổ Chầu để bám
sát lịch Phụng Vụ quanh năm. Một ví dụ điển hình gần đây nhất là
Lời Chủ Chăn của Đức Hồng Y GM. Phạm Minh Mẫn – Tổng Giám mục giáo
phận TP.HCM quy định về Sổ Lễ, Bổng Lễ và Lễ Hậu ký ngày 8-4-2004,
cũng là một văn kiện mang ý nghĩa trên.
Qua
Thư Chung 1903, người ta còn đọc được lời căn dặn chi ly từng việc,
từng công đoạn phải làm trước và trong CHẦU LƯỢT: “Vì vậy
điều định như sau này: Đến ngày CHẦU LƯỢT, phải dọn nhà thờ, nhất
là bàn thờ cho trọng thể hết sức, có thiếu đồ chầu mặt nhật thì
mượn xứ lân cận. Ngày ấy sẽ liệu làm lễ trọng, đoạn sẽ để Mình
Thánh vào mặt nhật để trên trốc nhà chầu cùng sẽ cho đến tối. Phải
cắt bổn đạo từng lớp đến chầu Mình Thánh, xứ nào đã chỉ hai ba nơi
mà chầu, thì sẽ chia việc ấy từng phần, mà trong giờ chầu trước hết
sẽ ngắm đàng câu rút,
rồi lần hạt một tràng năm chục, và sau hết sẽ đọc kinh Kinh Cầu Lái
Tim Đức Chúa Giêsu hay là kinh Dâng Mình và kinh Vật Hèn. Phải sức cho
hàng xứ hay là hàng phiên tùy nơi biết ngày chầu hai tuần trước,
cùng phải giục bổn đạo dọn mình chịu lễ ngày ấy vì được ăn mày
inđu
đầy, mà thầy cả sẽ lấy mấy điều trong Thư Chung về phép Mình Thánh
cho được giảng hay là đọc cho con chiên thêm lòng sốt sắng kính mến
phép Mình Thánh. Những việc ấy ta sẽ có ý dân cho Lái Tim Cực Trọng
Đức Chúa Giêsu ngự trong phép Mình Thánh rủ lòng che chở Thánh
Yghêrêgia cho khỏi các sự khốn khó hiểm nghèo đang chịu trong thì bây
giờ”.
Theo
chỗ tôi biết, ở những vùng quê bên đạo xưa, Chầu Lượt cũng là dịp
mở Tuần Đại Phúc ban phép lành toàn xá mà nhiều người cả đời mới
được một lần, nên chẳng ai dám đơn sai. Nhưng ngày này, tôi có cảm
tưởng – vì nhiều quá hóa nhàm, vì vật chất ê hề và chạy theo nhịp
sống hối hả của đô thị – công nghiệp hóa – người ta đã xem thường
tất cả, chẳng còn gì linh thiêng nữa chăng? Mấy chục năm trước đây,
đối với người giáo dân chúng tôi, món quà quý hóa nhất đơn giản chỉ
là một mẫu ảnh, cỗ tràng hạt, bộ áo Đức Bà Carmêlô (được làm
phép), sợi dây cước để đeo tượng Chúa chịu nạn hoặc quyển sách Gương
Phúc, Gương Tội. Còn nhớ, hồi tôi mới có trí khôn, mưa bão ở đâu
cường tập về, thổi trốc mái nhà. Tượng Đức Mẹ Sầu Bi trên bàn thờ
nhà tôi rớt xuống đất, vỡ tan tinh. Tôi nom rõ thầy mẹ tôi vừa khóc
rưng rức, vừa thu gom từng mảnh vụn, bọc vào trong một mảnh vải
sạch, rồi thả xuống lòng giếng. Các cụ bảo, tượng đã làm phép,
thiêng lắm, không được bỏ phí, phạm sự thánh, Chúa phạt lòi con mắt
ra cho mà coi. Nhờ ơn Đức Mẹ thương, những gầu nước từ cái giếng
riêng-mà-chung ấy đã chữa lành bao đứa trẻ trong cơn dịch đậu mùa
cấp tính.
6.
Không biết ở đâu thế nào, chứ ở những
xứ đạo làng quê tôi – suốt từ Ninh Cù, Cao Mộc, Thượng Phúc, Vân Am,
Vạn Đồn (Thái Thụy) đến Quỳnh Phụ, Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải –
Chầu Lượt bao giờ cũng diễn ra lớn lắm, thiêng liêng lắm. Không chỉ
giáo dân trong xứ họ, mà lan rộng ra cả hạt, cả tổng huyện quanh
vùng. Nhiều bà con bên lương, nhiều nhà chùa cũng hoan hỷ phát cây
tỉa cành, dọn dẹp đường sá, dựng cổng chào, hái hoa cúng dường
mừng lễ. Ở những chỗ giao lộ đã được phân định cho mỗi xứ họ, mỗi
khu giáo, là các nhà tạm được dựng lên theo nhiều kiểu dáng, được
trang hoàng cờ xí, đèn hoa lộng lẫy, nơi mà kiệu Mình Thánh sẽ dừng
lại để mọi người quỳ lạy tôn thờ và cuối cùng trở về nhà thờ để
làm giờ chầu tạ chung rất trọng thể. Mọi ngả đường nườm nượp người
đổ về nhà thờ. Từ đàng xa, đã thấy cây nêu (cột cờ) bằng tre bương
vút lên ngang tầm ngọn thu lôi ở đỉnh tháp. Gió đồng thổi về từng
chặp, nghe rất rõ tiếng lanh canh va chạm của 5 chiếc bánh và 2 con
cá bằng sắt treo ở lưng chừng cây nêu. Mãi sau này lớn khôn, tôi hiểu
đấy là biểu tượng của mầu nhiệm Thánh Thể.
Đối
với bọn trẻ ngây ngô chúng tôi, CHẦU LƯỢT là những ngày nhớ
đời. Sau khi lĩnh thưởng hội thi kinh, tùy theo lứa tuổi và gái trai,
chúng tôi được xưng tội rước lễ lần đầu, được chịu phép thêm sức,
được mặc quần áo, mang giầy dép mới, vào đoàn Nghĩa Binh Thánh Thể.
Đứa thì được giúp lễ, giúp chầu. Đứa thì được làm thiên thần, được
vào đội tung hoa hoặc được cầm cờ theo kiệu, được múa trắc đi đứng
thành hàng lối bên cạnh những phường kèn, phường trống, phường bát
âm vang rền nền nảy của đoàn hội chức việc người lớn trong lễ phục
uy nghi ngày hội.
7.
Mùa này mưa ướt sập sùi cả ngày. Thế
mà người ở đâu về, vòng trong vòng ngoài, chật cứng bốn phía bờ ao
Đức Bà. Còn cái sân nhà thờ mông mêng vẫn phơi thóc lúa kia thì ngập
tràn những đèn hoa, áo quần muôn sắc. Dưới chân mình, ở chỗ đường
chỉ những hàng gạch nứt nẻ, khe đá, bờ tường, tôi thấy đã lên xanh
mơn mởn nhiều lớp mạ non từ những hạt lúa vương vãi đầu mùa. Đông
vui sầm uất hơn cả, phải nói đến những
vuông chiếu hàng bồ, một loại hình chợ phiên lưu động rất đặc thù
của người Công giáo Việt Nam thường diễn ra những dịp lễ trọng và
đặc biệt là phiên chầu lượt ở các xứ đạo. Hình như họ đã thuộc
nằm lòng cái chu kỳ của những ngày chầu lễ quanh năm Phụng Vụ, phải
đến đâu, cung cấp những mặt hàng nào. Và hình như họ cũng đã dọn
mình để vừa thông công chầu lượt, vừa buôn bán để mưu sinh. Chẳng rõ
hai bồ chữ của ông Cao Thu Thần ngày xưa nặng nhẹ thế nào, chất chứa
bao nhiêu chữ nghĩa của thánh hiền; chứ chở được trọn vẹn cả đạo
lẫn đời như đôi gánh của những người hàng bồ, tôi trộm nghĩ, họ đã
xứng đáng được ông thánh Phêrô cấp hộ chiếu vào nước thiên đàng rồi.
Bởi vì, trên diện tích áng chừng hơn 2m2 mặt chiếu trải ra phía
trước, người đi chầu lễ về, có thể thà thiên ngắm nghía hoặc mua
sắm những thứ lỉnh khỉnh đủ dùng trong nhà, biết đâu lại còn phong
lưu nữa là đàng khác. Từ chiếc quạt giấy hoa châm kim còn tươi nguyên
mùi nan tre mới từ dưới nước cất lên, hộp đá lửa hiệu, xe tăng hộp
diêm con vẹt, cái ổ khóa, cái nhíp nhổ râu, bộ cúc áo bằng xương
cá, cỗ bài tam cúc, lưỡi dao cạo, cái hộp kẹo ngậm ho Pastille Valda
dùng làm sáp đựng thuốc lào, chiếc đồng hồ quả quýt, lọ brillantine
hiệu Shanghai của cánh đàn ông con trai cho đến bộ đồ nghề bất ly thân
của quý bà quý cô, gồm: Cái gương soi quả trám, cái lược thưa, lược
dày, mấy vỉ kim khâu đít vàng, cúc bấm, xâu kim băng, mấy cặp kim đan,
vài búi len đủ màu, cuộn chỉ mỏ neo, hộp long não, xấp lá lơ Vũ
Tạo, cục xà bông thơm Cô Ba Sài Gòn, xấp kẹp gỗ phơi quần áo, hộp
ngòi bút lá răm –lá tre, gói mực tím, lại có cả nắm bồ kết phơi
khô để nấu nước gội đầu… Từ những thứ thuốc chữa bệnh thường thức
gia đình như gói thuốc tễ nhào mật ong do các nữ tu nhà dòng vừa
bán vừa cho làm phước, mấy viên ký ninh vàng trị sốt rét, lọ thuốc
nhỏ mắt lông quặm-viền điều chính hiệu mặt trời mọc cho đến những
đồ dùng thờ tự: Tranh đạo, ảnh tượng thánh, bình hoa, tràng hạt,
chân nến, khung ảnh, khăn thêu, hoa giấy, đèn xếp, đèn chầu, vụn bánh
lễ… Chỉ tội cho người con chiên nhà quê suốt đời đói chữ nghĩa –
khát lời Chúa, hễ thấy kinh sách là sáng mắt ra, y như bắt được
của, vớ được vàng. Vâng, ở cái thuở bên kia bờ Cựu Ước, khi thầy cả
còn đọc Evan – chầu Thánh Thể và cử hành các Bí Tích thuần bằng
tiếng Latinh thì mảng kinh truyện vè vãn chữ Nôm – quốc ngữ của gánh
hàng bồ (Ngắm 15 Sự Thương Khó Đức Chúa Giêsu Tuần Cửu Nhật, Toàn
Niên Kinh Nguyện, Sấm Truyền Cũ, Sách Lâm Mệnh, Truyện Ông Tôbia, Tryện
Alêxù, Hạnh Các Thánh, Ca Vè Cụ Sáu v.v..) đúng là món ăn hợp khẩu
vị, hấp dẫn vô cùng, không thể bỏ qua.
Trời
tháng 9 lất phất mưa rơi. Rảo quanh những hàng bồ bày la liệt còn đỏ
đèn đợi khách, bỗng thèm mùi thơm lọ dầu con hổ, muốn cắn miếng
quế cay, tìm hơi ấm.
Dù ai buôn bán trăm nghề
Tới phiên chầu lượt nhớ về thông công.
Chiều
tối, chầu lễ về, cơm nước xong, chúng tôi lại lũ lượt đến sân nhà
thờ, chen vào hội quán để nghe ca vãn và xem tuồng tích đạo: Abraham
sát tế con, Cain và Abel, bà Judith sang dinh quân giặc, Gioan Tiền Hồ
bị chém đầu, 10 cô trinh nữ, Đức Mẹ Truyền Tin, các thánh tử đạo
Việt Nam…
Ngày
nay, bức tranh toàn cảnh khắc họa đậm nét đức tin – văn hóa làng quê
Công giáo Việt Nam đã nhạt nhòa và đang rơi rớt đến sạch trơn. Mấy ai
còn muốn hé mở cánh cửa quá khứ để nhìn lại và đi lại một đỗi
đường dài mấy trăm năm tổ tiên ta đã đi qua? Hình như khi đồng quê đã
phố hóa thì hình ảnh chợ phiên với những cô hàng xén và CHẦU
LƯỢT ở nhà thờ với những người quảy hàng bồ cũng chịu chung số
phận hoa trôi bèo dạt. Mấy lần ra Bắc về quê, lòng bỗng xót xa đẩu
đâu. Cảnh, chuyện và người giờ đã khác, đã tàn phai, đã khâm liệm
một đời. Tiếc là tiếc không còn gặp lại đôi cánh bồ câu đưa tin,
những trạm trung chuyển đã một thời nối kết gần lại những vùng
miền xa lắc những thế hệ trước sau, nhưng cùng uống chung một dòng
sông phát tích từ nguồn mạch là đức tin và lòng đạo trong veo, thuần
hạnh. Cho nên, đến với Chầu Lượt là trở về miền đất còn tươi nguyên
những cảm xúc thánh thiêng, dạt dào.
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn.
(Chế Lan Viên)
Gò Dầu, 2017
Tác giả:
Francis Assisi Lê Đình Bảng
|